Tuyên ngôn độc lập – Hồ Chí Minh

0
14012
logo A

Tuyên ngôn độc lập – Hồ Chí Minh

 Tuyên ngôn độc lập – Hồ Chí Minh là một áng văn chính luận mẫu mực, một lập luận đầy trí tuệ, sự sắc sảo, lý lẽ đanh thép, bằng chứng thuyết phục. Bản tuyên ngôn độc lập này được xem như bản tuyên ngôn độc lập lần thứ ba của Việt Nam.

I. KIẾN THỨC CHUNG

  1. Tác giả

          Hồ Chí Minh không chỉ biết đến là một vị lãnh tụ tài ba, kiệt xuất của dân tộc Việt Nam mà còn được biết đến với tư cách là một nhà văn, nhà thơ lớn. Người để lại  nhiều tác phẩm lớn ở nhiều thể loại truyện, ký, thơ ca, văn chính luận. Trong đó “Tuyên ngôn độc lập” là một áng văn chính luận mẫu mực, một nghệ thuật lập luận tài tình có một không hai trong lịch sử văn học dân tộc.

  1. Tác phẩm

          Cách mạng Tháng Tám thành công, chính quyền khắp cả nước về tay nhân dân. Ngày 2.9.1945, Hồ Chí Minh đã đọc bản tuyên ngôn này trước hàng vạn đồng bào thủ đô, mở ra kỷ nguyên mới cho dân tộc – kỷ nguyên độc lập tự chủ. Tác phẩm là kết tinh của chủ nghĩa yêu nước của khát vọng tự do, hòa bình và tự chủ.

II. KIẾN THỨC TÁC PHẨM CẦN NHỚ

 1. Mở đầu, Người nêu lên cơ sở pháp lí và chính nghĩa của bản Tuyên Ngôn: Người trích dẫn hai bản tuyên ngôn độc lập của Pháp và Mỹ: Tuyên ngôn độc lập của Mĩ (1776): “Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa đã cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được. Trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp (1791) cũng đã nói: “Người ta sinh ra tự do bình đẳng về quyền lợi và phải luôn tự do bình đẳng về quyền lợi”. Những lời bất hủ trong tuyên ngôn của Pháp và Mỹ đã được cả thế giới công nhận vì tính nhân văn và tiến bộ của nó về quyền lợi của con người. Vì vậy, nó là cơ sở pháp lý cho việc lập về quyền độc lập của Việt Nam.

Việc trích dẫn ấy là một nghệ thuật lập luận mang nhiều ý nghĩa: Có tính chiến thuật sắc bén, khéo léo, khóa miệng đối phương. Đó chính là thành công của nghệ thuật “Gậy ông đập lưng ông” dùng chính lời lẽ của kẻ thù để đánh lại chúng. Cái hay là ở chỗ là: Bác một mặt như ngợi khen, một mặt lại hạ bệ chúng. Mặt khác người đọc có thể thấy Bác đã đặt ba cuộc Cách mạng, ba nền độc lập, ba bản Tuyên ngôn ngang hàng nhau. Khẳng định tư thế đầy tự hào của một dân tộc độc lập và có quyền để hưởng tự do và độc lập. Đây chính là sự kế thừa và phát huy bản Tuyên ngôn thứ hai của Việt Nam là “Bình Ngô Đại Cáo” của Nguyễn Trãi.

Từ việc trích dẫn trên Bác đã đi đến một lập luận sáng tạo: Suy rộng ra điều đó có nghĩa là: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Như vậy, dựa trên hai bản tuyên ngôn nói về quyền lợi  của con người Bác đã nâng lên thành quyền lợi của dân tộc. Nghĩa là bản Tuyên Ngôn của Việt Nam còn cao hơn cả hai bản Tuyên Ngôn của Pháp và Mỹ.

Tóm lại: Với lời lẽ sắc bén, đanh thép, Người đã xác lập cơ sở pháp lý của bản Tuyên Ngôn, nêu cao chính nghĩa của ta. Đặt ra vấn đề cốt yếu là độc lập dân tộc.  Đây cũng là cơ sở để Người vạch tội chúng trong phần tiếp theo. Đúng như Chế Lan Viên nhận định “Cách lập luận của Hồ Chí Minh về phía ta giống như một trái táo còn về phía kẻ thù nó giống như một trái lựu đạn nhét vào cổ họng chúng. Nuốt không vô mà khạc cũng không ra”.

2. Ở luận điểm tiếp theo, Hồ Chí Minh đã nêu cơ sở thực tế của bản Tuyên Ngôn:

Bác đã nêu lên lý lẽ và lập luận hết sức thuyết phục về mặt pháp lý và thực tế nhằm bác bỏ luận điệu của bọn đế quốc thực dân. Để vạch trần luận điệu về công lao “khai hóa” của Pháp đối với Đông Dương, Bác đã nêu rõ “Những hành động trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa” của chúng trong 80 năm thống trị nước ta về hai phương diện: Chính trị và Kinh tế.

Pháp kể công “Khai hóa”,  Bác vạch trần tội ác của chúng về chính trị. Có khai hóa, tự do, văn minh nào mà chúng tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào”. Tự do, văn minh mà “nhà tù nhiều hơn trường học” . Bác ái mà  “Chúng thi hành những luật pháp dã man … Chúng dùng thuốc phiện, rượu cồn để làm cho nòi giống ta suy nhược”. Bác ái mà “Thẳng tay chém giết những người yêu nước thương nòi của ta. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu”.

Chưa hết, về mặt kinh tế: Chúng bảo bình đẳng mà lại “bóc lột dân ta đến tận xương tủy, cướp không hầm mỏ, nguyên liệu, xí nghiệp; độc quyền in giấy bạc, xuất cảng nhập cảng; không cho các nhà tư sản ta ngóc đầu lên, làm dân cày dân buôn bần cùng. Chúng bóc lột công nhân ta một cách vô cùng tàn nhẫn”.

Ở hai đoạn văn trên, sự tài tình của Hồ Chủ Tịch là nghệ thuật lập luận: câu văn lặp cấu trúc,  phép điệp liên tục “chúng tuyệt đối… chúng thi hành…chúng lập ra…chúng tắm các cuộc khởi nghĩa… chúng dùng thuốc phiện…chúng cướp không…” tạo nên một “liên hoàn lời”, tố cáo mạnh mẽ, đanh thép khiến chúng “không thể chối cãi” và trở tay không kịp. Mặt khác, Bác cũng tranh thủ quan tâm đến giai cấp tư sản, công nhân, nông dân khơi dậy tình đoàn kết hữu ái giai cấp. Đặc biệt từ tội ác trên của thực dân bác đanh thép kết án chúng đã gây ra cái chết thảm thương cho hơn hai triệu đồng bào miền Bắc vào nạn đói năm 1945.

Pháp kể công “Bảo hộ”: bảo hộ nghĩa là bảo vệ nhưng chúng đã không làm được. Bác đã tố cáo tội ác của chúng: Tội ác trong 5 năm (1940 – 1945). Trong năm năm chúng đã “bán nước ta hai lần cho Nhật”. Đó là mùa thu năm 1940, Nhật xâm lăng Đông Dương để mở rộng căn cứ đánh Đồng Minh… bọn thực dân Pháp “quỳ gối đầu hàng mở cửa nước ta rước Nhật”. Ngày 9 tháng 3 năm 1945, khi Nhật tước khí giới của quân đội Pháp, bọn thực dân Pháp hoặc là “bỏ chạy”, hoặc là “quỳ gối đầu hàng”. Bác vạch trần thái độ nhục nhã của Pháp: quỳ gối đầu hàng, bỏ chạy… Như vậy là chúng đã phản bội đồng minh, không đáp ứng liên minh cùng Việt Minh để chống Nhật, thậm chí thẳng tay khủng bố, giết nốt tù chính trị ở Yên  Bái, Cao Bằng. Đó là lời khai tử dứt khoát cái sứ mệnh bịp bợm của thực dân Pháp đối với nước ta ngót gần một thế kỉ.

Người đã nêu cao những tự hào của Cách mạng Việt Nam: Ta luôn đứng về lập trường chính nghĩa “Đem đại nghĩa để thắng hung tàn/ Lấy chí nhân để thay cường bạo”. Việt Nam khoan hồng với kẻ thù bị thất thế: giúp người Pháp chạy  qua biên giới, bảo vệ tài sản và tính mạng, của cải cho họ. Láy đi láy lại hai chữ “Sự thật” nhằm nhấn mạnh thắng lợi to lớn của Cách mạng ta khi đứng về phe Đồng minh chống phát xít, đồng thời Bác cũng dứt khoát bác bỏ sự có mặt của Pháp trên đất nước ta cũng có nghĩa là Pháp không có cớ gì để quay trở lại Việt Nam : “Sự thật là từ mùa thu năm 1940, nước ta đã trở thành thuộc địa của Nhật, chứ không phải là của Pháp nữa… Sự thật là nhân dân ta đã lấy lại Việt Nam từ tay Nhật chứ không phải là tay Pháp”. Thắng lợi to lớn của Cách mạng Việt Nam là: “Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị”. Chế độ Dân chủ Cộng Hòa từ đó được ra đời.

Tiếp đến, chủ tịch Hồ Chí Minh đã phủ định chế độ thuộc địa của thực dân Pháp qua đó khẳng định quyền độc lập, tự do của dân tộc. Phủ định dứt khoát, triệt để: “Tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ thực dân với Pháp, xóa bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã ký về nước Việt Nam, xóa bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam”. Những từ ngữ: thoát ly hẳn, xoá bỏ (điệp ngữ) thể hiện sự dứt khoát khai tử cái gọi là “bảo hộ”, “khai hoá”.

  1. Trong phần cuối của lập luận Bác đưa ra Lời tuyên bố độc lập trước thế giới : Lời tuyên bố thể hiện lí lẽ đanh thép vững vàng của Người về quyền dân tộc đồng thời thể hiện khát vọng tự do của cả dân tộc. Điều đó thể hiện qua giọng văn hào hùng mãnh liệt đầy niềm tin: “Nước Việt Nam có quyền được hưởng tự do độc lập và thực sự đã trở thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”.
  2. Nghệ thuật:

         “Tuyên ngôn độc lập” có lập luận chặt chẽ, lí lẽ đanh thép, bằng chứng xác thực, giàu sức thuyết phục. Ngôn ngữ vừa chính xác vừa gợi cảm. Giọng văn linh hoạt, đa giọng điệu khi mãnh liệt hùng hồn, khi trang nghiêm tha thiết. Tuyên ngôn Độc lập của Bác đã trở thành một áng văn chính luận mẫu mực nổi tiếng.

III. TỔNG KẾT

logo A