Phân tích nhân vật thị Nở trong truyện ngắn Chí Phèo
Nhân vật thị Nở là một nhân vật mà “Nam Cao đã thật như đùa” (Chữ dùng của GS. Nguyễn Đăng Mạnh) làm người đọc “té ngửa” bởi con người xấu như ma chê quỷ hờn kia lại có một năng lực đặc biệt – năng lực của tình yêu thương. Tình yêu thương của thị đã làm quỷ dữ phải cúi đầu, làm thằng say rượu phải tỉnh táo để biết yêu, làm người đọc phải ồ lên trân trọng… Nhân vật thị Nở cũng đáng để ta suy ngẫm chứ nhỉ? Cùng đọc bài của học trò thầy nhé.
I. MỞ BÀI:
– Thị Nở là một nhân vật phụ song lại có vai trò vô cùng quan trọng trong việc thể hiện chiều sâu của tác phẩm.
II. THÂN BÀI
1. Khái quát chung:
– Truyện ngắn “Chí Phèo” ra đời năm 1941, là kiệt tác của Nam Cao và cũng là kiệt tác của dòng văn học hiện thực phê phán Việt Nam.
2. Nội dung:
2.1. Chân dung Thị Nở:
– Ngoại hình: xấu xí, ma chê quỷ hờn, gương mặt của Thị là một sự mỉa mai của hoá công, tưởng bề ngang hơn bề dài, cái mũi vừa ngắn vừa to, vừa đỏ, vừa sần sùi như vỏ cam sành, bờ môi nứt nẻ như bờ ruộng vào kì đại hạn.
– Tính cách: dở hơi, thuộc típ người đần trong cổ tích, hành động hoàn toàn theo tiếng gọi của bản năng … Tính lại hay ngủ, bạ đâu ngủ đó: đang quét sân cũng lăn ra ngủ, đi gánh nước cũng ngủ.
– Lai lịch: nghèo, dòng giống mả hủi. Nếu Chí Phèo bị cự tuyệt bởi tội ác của quỷ thì Thị Nở bị xa lánh bởi xấu và đần, mả hủi. Cho nên Chí và thị là hai kẻ cô đơn giữa xã hội loài người.
Miêu tả hài hước, chua chát, Nam Cao ngầm khẳng định người như Thị Nở sẽ gặp nhiều bất hạnh.
2.2. Vai trò, mục đích xây dựng nhân vật:
– Sử dụng thủ pháp đối lập để thể hiện một quan niệm rất hiện đại về hai chữ con người: không có con người hoàn toàn lương thiện, cũng không có con người hoàn toàn xấu xa, con người hiện diện qua tất cả những mặt đối lập. Đối lập qua ngoại hình bất thành nhân dạng là một nội tâm tràn đầy nhân tính.
– Sự xuất hiện của nhân vật trong cuộc đời của Chí Phèo tạo bước ngoặt lớn, là chất xúc tác làm hiện lên trọn vẹn vấn đề trung tâm của tác phẩm. Bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo.
+ Khi Thị Nở xuất hiện với tư cách một con người có tình người ở bên cạnh Chí, Thị khiến Chí hồi sinh: Thoạt đầu là tỉnh rượu, tiếp đò là tỉnh ngộ rồi cuối cùng là khao khát làm người lương thiện, khao khát hoàn lương. Như vậy Thị Nở là tác nhân khơi dậy tính người toàn vẹn nơi Chí Phèo.
+ Khi Thị Nở từ chối Chí Phèo, điều đó đẩy hắn từ đỉnh cao của niềm hy vọng rơi xuống tận cùng của nỗi tuyệt vọng, bất hạnh, tủi nhục, khốn khổ vì ngay cả một người xấu ma chê quỷ hờn mà cũng biết từ chối Chí Phèo. Niềm hạnh phúc mong manh và muộn mằn nhưng quá tầm tay của hắn. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc cánh cửa mở vào thế giới lương thiện đã đóng lại, khát vọng được làm hòa với mọi người không thành hiện thực, tuyệt vọng, uất ức, thù hận, đẩy Chí Phèo đến chỗ tự sát một cách nhanh chóng, quyết liệt và bi thảm.
2.3. Xây dựng nhân vật Thị Nở, Nam Cao đã thể hiện được giá trị nhân đạo sâu sắc.
– Thị Nở là một “thiên sứ” với trái tim con người đã vá lại trái tim rỉ máu và chằng chịt tội lỗi của Chí Phèo. Thị là hiện thân của tình yêu thương và qua đó Nam Cao cũng đề cao sức mạnh của tình yêu thương. Chính tình yêu thương giữa con người với con người đã đưa Chí Phèo từ một con quỷ dữ trở lại thành người.
– Bát cháo hành của Thị Nở là một liều thuốc giải độc. Nó tẩy ố đi men rượu và thức dậy tình người vốn đã bị vùi lấp trong Chí Phèo. Nó giống như “bát cháo cám” của bà cụ Tứ, như ngụm nước của Esmilandas đã cứu rỗi linh hồn của Quazimodo trong Nhà thờ đức bà Pari. Bát cháo hành của Thị Nở có một thứ hương vị đặc biệt, đó chính là hương vị của tình yêu thương. Chính hương vị đặc biệt này đã làm cho Chí Phèo tỉnh ngộ và đưa hắn đến với tâm lý khao khát được trở về với xã hội bằng phẳng, lương thiện.
3. Đánh giá nội dung và nghệ thuật xây dựng nhân vật:
– Về nội dung: Xây dựng nhân vật Thị Nở mục đích chính vẫn là thể hiện chiều sâu của tác phẩm, nâng cao tầm giá trị tư tưởng nhân đạo. Khẳng định tình yêu thương là liều thuốc diệu kì nhất để cứu rỗi linh hồn của con người. Nhân vật Thị Nở là nhân vật phụ nhưng nếu thiếu nhân vật này tác phẩm sẽ không còn nguyên giá trị.
– Về nghệ thuật:
+ Thủ pháp nghệ thuật tương phản đối lập: ngoại hình – phẩm chất, tính cách.
+ Thị Nở là nhân vật đòn bẩy để khắc họa sâu sắc tính cách, nhân phẩm, bi kịch của nhân vật trung tâm – Chí Phèo.
III. KẾT BÀI
BÀI THAM KHẢO
Bài làm của học sinh Thùy Dương
Trước cách mạng tháng tám, Nam Cao nổi lên như một hiện tượng của văn học hiện thực với những tác phẩm xoay quanh hai chủ đề chính là người trí thức nghèo và người nông dân nghèo. Trong số đó, “Chí phèo” được xem như là một kiệt tác của ông bởi sự tài hoa trong việc khắc họa những nhân vật điển hình trong những hoàn cảnh điển hình. Nếu như Chí Phèo hiện lên với những tính cách, bộ dạng của một con quỷ trong một cuộc sống đầy mâu thuẫn và cùng cực thì Thị Nở lại hiện lên với một bộ dạng xấu xí chưa từng thấy trong lịch sử văn học. Hai con người bị xã hội ruồng rẫy được đặt cạnh nhau trong một câu chuyện để rồi tạo nên biết bao giá trị nhân văn sâu sắc. Có ai ngờ một nhân vật như Thị Nở lại trở thành một bước ngoặt trong câu chuyện, đưa Chí Phèo từ một con quỷ dữ trở về đời sống của một con người.
Câu chuyện được Nam Cao viết vào năm 1936, nguyên có tên là Cái lò gạch cũ, sau đó nhà xuất bản Đời mới tự ý đổi tên thành “Đôi lứa xứng đôi”. Đến khi in lại trong tập Luống cày (Hội Văn hóa cứu quốc xuất bản, Hà Nội,1946), tác giả đặt lại tên là Chí Phèo. Tác phẩm “là kết tinh những thành công của Nam Cao trong đề tài nông dân” với câu chuyện xoay quanh cuộc đời và nhân vật Chí Phèo. Bên cạnh đó, là một nhân vật phụ song lại có một vị trí quan trọng mang tính chất bước ngoặt trong cuộc đời Chí Phèo-Thị Nở. Chính Thị đã làm cho một kẻ chỉ biết chém giết và uống rượu biết mơ ước về một gia đình và sống đúng nghĩa một con người.
Trong tác phẩm của mình, Nam Cao không tập trung miêu tả kĩ về thân thế Thị Nở mà chỉ phác họa đôi nét. Về lai lịch, ông chỉ kể ngắn gọn, Thị có “ một người cô đã có thể gọi được là già, và đã không chồng như thị… Người cô làm thuê cho một người đàn bà buôn chuối và trầu không xếp tàu đi Hải Phòng, có khi đi tận Hòn Gia, Cẩm Phả” . Ngược lại, Nam Cao lại tập trung vào điểm nhấn điển hình của Thị :là người xấu nhất làng Vũ Đại, vốn được Nhà văn miêu tả như sau: “Cái mặt của thị thực là một sự mỉa mai của hóa công: nó ngắn đến nỗi mà bề ngang hơn bề dài, thế mà hai má nó lại hóp vào mới thật là tai hại, nếu hai má nó phinh phính thì mặt thị lại còn được hao hao như mặt lợn… Cái mũi thì vừa ngắn, vừa to, vừa đỏ, vừa sần sùi như vỏ cam sành…”
“Đã thế thị còn dở hơi… và thị lại nghèo… và thị lại là dòng giống của một nhà có mả hủi…”Thế nên, người ta tránh thị như tránh một con vật rất tởm… Song chính chân dung đầy kinh hãi ấy lại làm nổi bật hơn những phẩm chất của Thị
Khác với Chí Phèo, Thị Nở xuất hiện ở phần sau của câu chuyện khi mà Chí Phèo đã trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Lúc ấy, sau khi uống rượu ở nhà tự Lãng, Chí “lảo đảo ra về, nhưng không về lều mà đi ra bờ sông gần nhà. Ở đó, Chí Phèo đã gặp Thị Nở, một người đàn bà xấu xí, ngẩn ngơ, ế chồng.-ra sông kín nước ngồi nghỉ rồi ngủ quên. Họ ăn nằm với nhau rồi cùng ngủ say dưới trăng”. Cứ tưởng đó chỉ đơn thuần là bản năng trỗi dậy, song sau sự việc đó, Thị Nở đã có sự thay đổi. Thị chìm đắm trong cơn say của bản năng thiên tạo, quên hết thảy mọi ràng buộc, mọi định kiến trên đời, trong đầu Thị giờ chỉ còn hình ảnh của Chí Phèo. Và cứ thế những gì thuộc về bản chất của người đàn bà cứ thế bộc lộ ra. Thị nhận thức được tình yêu thương trong mình, khi thấy “Nửa đêm, Chí Phèo đau bụng, nôn mửa. Thị Nở dìu hắn vào trong lều, đặt lên chõng, đắp chiếu cho hắn rồi ra về…”. Nghe có vẻ phũ phàng khi Thị bỏ Chí Phèo về trong đêm và dường như hành động quan tâm của Thị chỉ là sự đáp trả cho việc đã xảy ra giữa hai người. Tuy nhiên không phải vậy, trong lúc Chí Phèo đang “thấy miệng đắng, lòng mơ hồ buồn, người thì bủn rủn, chân tay không buồn nhấc” và chìm đắm trong những ý nghĩ về cuộc đời mình “hắn đã tới cái dốc bên kia của cuộc đời”, “Chí Phèo hình như đã trông thấy cái tuổi già của hắn, đói rét và ốm đau, và cô độc” thì Thị Nở xuất hiện. Sự xuất hiện của Thị như một sự cứu rỗi linh hồn của hắn: “Nếu Thị không vào, cứ để hắn vẩn vơ nghĩ mãi, thì đến khóc được mất”. “Thị vào cắp một cái rổ, trong có một nồi gì đậy vung. Đó là một nồi cháo hành còn nóng nguyên.” Rõ là thị về để chuẩn bị nồi cháo ấy cho hắn dẫu cho “lúc còn đêm, thị trằn trọc một lát”. Thế nhưng “Vừa sáng thị đã chạy đi tìm gạo. Hành thì nhà thị may lại còn. Thị nấu bỏ vào cái rổ mang cho Chí Phèo”. Một người ngẩn ngơ, không quan tâm ai bao giờ như Thị, nay lại dành hết thảy mọi yêu thương cho Chí Phèo – “ đó là cái lòng yêu của một người làm ơn,..cũng có cả cái lòng yêu của một người chịu ơn”. Nhưng sự làm ơn của Thị vốn dĩ không bình thường, bởi lẽ người chịu ơn lại là một con quỷ dữ mà không ai dám lại gần. Phải can đảm và giàu lòng yêu thương lắm thì Thị mới dám hết lòng với Chí bởi theo thị, Chí là “cái thằng trời đánh không chết ấy” . Trong cái “xã hội bị tha hóa toàn diện (tha hóa vì quyền lực, tha hóa vì cùng cực cùng đường, tha hóa vì bản thân). Quan hệ xã hội ở đây là quan hệ giữa các đơn vị đã bị tha hóa (cá nhân với cá nhân, nhóm loại với nhóm loại)” và cứ thế “người ta sống quẩn quanh, đói nghèo, bế tắc đã đành, họ lại còn tỏ ra lạnh lùng, tàn nhẫn, định kiến với người xung quanh. Với một đứa con hoang, một thằng không cha không mẹ, không tấc đất cắm dùi, một “con quỷ dữ” chuyên sống bằng nghề rạch mặt ăn vạ Chí Phèo, chẳng một ai trong cái làng Vũ Đại chấp nhận. Người làng dường như loại bỏ Chí ra khỏi quan hệ của mình, “mặc thây cha nó”,” (Đức Mậu trong bài Các mối quan hệ xã hội trong làng Vũ Đại, in trong Nghĩ tiếp về Nam Cao, NXB Hội Nhà văn, H., 1992). Người ta cho rằng Thị là kẻ ngẩn ngơ, chẳng ai ngó ngàng nhưng chính Thị lại là kẻ tỉnh nhất trong những người điên. Khi mà mọi người vẫn cho rằng Chí là kẻ không thể cải tạo thì chỉ bằng bát chào hành và sự quan tâm thì Chí Phèo bắt đầu thấy “thèm lương thiện, muốn làm hòa với mọi người biết bao” và ước mong có một gia đình. Rõ ràng, Thị đã can dự sâu sắc vào cuộc đời Chí, đánh thức những phẩm chất tốt đẹp tiềm tàng trong một con người. Và một lần nữa hành động của Thị đã chứng mình cho tình yêu thương là không giới hạn dẫu rằng Thị chỉ là một kẻ xấu xí, bị xa lánh.
Tuy giàu lòng yêu thương là thế song Thị vẫn cứ là người ngẩn ngơ: Cứ tưởng Thị và Chí sẽ sống bên nhau hạnh phúc vậy mà “ đến hôm thứ sáu, thì thị bỗng nhớ rằng thị có một người cô ở đời. Người cô ấy nội nay sẽ về. Thị Nghĩ bụng: hãy dừng yêu để hỏi cô thị đã”. Một người gàn dở đến mức quên cả người thân đã đành nay lại còn có khái niệm “dừng yêu”. Tường rằng khi bị bà cô xỉa xói “ đã nhịn được đến bằng này tuổi thì nhịn hẳn; ai lại đi lấy thằng Chí Phèo!” Thị sẽ bảo vệ tình yêu của mình nhưng không “ Thị nghe thấy thế mà lộn ruột…Thị tức lắm! Thị cần đổ cái tức lên một người. Thị ton ton chạy lên nhà nhân ngãi”. Và khi bị Chí chửi vì phải đợi “Thị giẫm chân xuống đất, rồi lại nhảy cẫng lên như thượng đồng… Thị chống tay vào háng, vênh vênh cái mặt, và dớn cái môi vĩ đại lên, trút vào mặt hắn tất cả lời bà cô” rồi “ngoay ngoáy mông đít đi ra về” xem mọi thứ như chưa từng xảy ra mặc cho “ đuổi theo Thị, nắm lấy tay”. Thị dường như quên hết mọi thứ, bát cháo hành và tình yêu thương trước đó của mình. Chính cái sự gàn dở trong suy nghĩ và hành động của Thị đã đẩy câu chuyện đến bi kịch bằng cái chết của Chí.
Dẫu rằng trong tâm tư và hành động của Thị vẫn có nhiều mâu thuẫn song trong một con người gàn dở lại có một sự yêu thương mà người bình thường không hề có thì thật đáng trân trọng. Rõ ràng, Nam Cao đã rất thành công khi xây dựng một hình tượng như thế. Từ đó chứng tỏ khả năng thiên bẩm của ông trong việc đặt nhân vật vào hoàn cảnh của mình.
Khác với những nhân vật thường thấy trong các tác phẩm văn học, Nam Cao không chọn cho mình một nhân vật đẹp người đẹp nết như nàng Tấm để ra tay cứu vớt đời Chí Phèo mà để cho một nhân vật xấu xí bậc nhất lịch sử Việt Nam xuất hiện. Để rồi làm toát lên những thông điệp mà ông muốn gửi gắm, trong cái xã hội ấy, cái xã hội của sự chia cách phân biệt, nơi con người ta sẵn sàng chà đạp lên nhau mà sống thì tình yêu thương dẫu xuất phát từ một con người xinh đẹp hay xấu xí đều rất đáng trân trọng. Và dù trong hoàn cảnh nào, dù có đói khổ ra sao thì chỉ cần tình yêu thương con người ta sẽ lấp đầy tất cả khó khăn đó bởi lẽ “người ta chỉ xấu xa trước đôi mắt ráo hoảnh cùa phường ích kỉ” (Phrangxoa Cope)
Thuỳ Dương
THPT Ngô Quyền, Biên Hoà, Đồng Nai
(Bài chưa qua biên tập)