Phân tích bài thơ “Từ ấy” của nhà thơ Tố Hữu

0
15872

MỤC LỤC BÀI VIẾT

Phân tích bài thơ “Từ ấy” của nhà thơ Tố Hữu

DÀN Ý CHI TIẾT

I. MỞ BÀI

Tố Hữu là nhà thơ của lý tưởng cộng sản là lá cờ đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam. Tập thơ Từ ấy (1937 – 1946) có thể coi là tập thơ đầu tay đánh dấu mối duyên đầu của Tố Hữu với thơ ca cách mạng. Tập thơ có ba phần tương ứng với những chặng đường tranh đấu của nhà thơ: Máu lửa – Xiềng xích – Giải phóng. Bài thơ “Từ ấy” được nằm ở phần đầu của tập thơ là một trong những bài thơ hay nhất của Tố Hữu. Bài thơ là cái Tôi trữ tình tràn đầy niềm vui sướng hân hoan khi lần đầu tiên giác ngộ ánh sáng của Đảng của lý tưởng. Cảm xúc ấy được nhà thơ ghi lại bằng những vần thơ tự sự trữ tình tràn đầy niềm vui và ánh sáng.

“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ

Không áo cơm cù bất, cù bơ”

II. THÂN BÀI

1. Khái quát

Trước khi đến với ánh sáng của cách mạng, Tố Hữu cũng như bao thanh niên khác cùng thời không tìm thấy lối đi cho mình. Đó là những tháng ngày mà Tố Hữu đã từng viết “Đâu những ngày xưa tôi thấy tôi/ Băn khoăn đi tìm lẽ yêu đời/ Vẩn vơ theo mãi vòng quanh quẩn/ Muốn bước than ôi bước chẳng rời”. Nhưng rồi ánh sáng của Đảng như nguồn sáng diệu kỳ làm bừng sáng tâm hồn thi nhân:

Từ vô vọng, mênh mông đêm tối

Người đã đến. Chói chang nắng dội

Trong lòng tôi. Ôi Đảng thân yêu

Sống lại rồi. Hạnh phúc biết bao nhiêu!

         Tháng 7 năm 1938, Tố Hữu được vinh dự đứng vào hàng ngũ của Đảng. Phút giây ấy đã làm thăng hoa cuộc đời nhà thơ.

2. Nội dung cần phân tích:

2.1. Đoạn thơ mở đầu bằng lời tự sự diễn tả niềm vui sướng, niềm hạnh phúc tột đỉnh và sự say mê khi bắt gặp lí tưởng Đảng của cái tôi trẻ trung tràn đầy nhiệt huyết. Đảng như vầng dương sáng soi cuộc đời thi nhân.

Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ 

Mặt trời chân lý chói qua tim 

Tháng 7.1938, sau thời gian hoạt động trong phong trào thanh niên ở Huế, Tố Hữu vinh dự được đứng vào hàng ngũ của Đảng. Vinh dự và niềm vui lớn ấy là cả một niềm hân hoan. Tác giả khẳng định lí tưởng cộng sản như một nguồn sáng mới làm bừng tỉnh, bừng sáng tâm hồn và trí tuệ nhà thơ. Hai chữ “Từ ấy”, không chỉ có ý nghĩa nhấn mạnh mốc thời gian tháng 7.1938 nhà thơ được đứng vào hàng ngũ của Đảng mà còn còn nhấn mạnh mốc son đáng nhớ trong tâm hồn của chàng thanh niên mười tám tuổi. Nhà thơ diễn tả ánh sáng của Đảng bằng một hình ảnh thơ rất chói chang ấm nóng đó là hình ảnh “bừng nắng hạ”. Từ “bừng” chỉ ánh sáng phát ra đột ngột: bừng sáng, bừng ngộ, bừng tỉnh. Còn “nắng hạ” là ánh nắng chói chang, ấm nóng, mạnh mẽ. Ánh sáng ấy làm đánh thức một tâm hồn đang lạc lối dẫn nhà thơ vượt qua u tối để vươn tới ánh sáng của ngày mới:

Con lớn lên, con tìm Cách mạng

Anh Lư­u, anh Diểu dạy con đi

Mẹ không còn nữa, con còn Đảng

Dìu dắt con khi chửa biết gì.

Hình ảnh “mặt trời chân lí chói qua tim” là một hình ảnh độc đáo, bất ngờ, táo bạo giàu ý nghĩa thẩm mĩ mà rất chính xác, gợi cảm. Mặt trời là nguồn sáng rực rỡ, chói chang và duy nhất đưa lại sự sống cho muôn loài. Hình ảnh “mặt trời chân lí” đi liền với nhóm từ “chói qua tim” đã diễn tả được niềm vui rất đỗi thiêng liêng, có cái gì đó gần như “choáng váng” (chữ dùng của Hoài Thanh) và sức xuyên thấu kì diệu, mạnh mẽ của lí tưởng Đảng đối với tình cảm, nhận thức của thi sĩ. Thầy Phan Danh Hiếu. Tình cảm ấy không chỉ đón nhận bằng tâm hồn mà còn bằng cả trái tim; sự hài hòa giữa lý trí và tình cảm.

          Sức mạnh của lý tưởng còn làm thay đổi hẳn một con người, một cuộc đời:

“Hồn tôi là một vườn hoa lá

Rất đậm hương và rộn tiếng chim”

Với bút pháp trữ tình, lãng mạn cùng với hình ảnh so sánh có tính chất khẳng định (Tố Hữu dùng từ “là” chứ không dùng từ “như”). Tác giả đã bày tỏ được niềm hạnh phúc vô biên, sức sống kì diệu của tâm hồn mình trong buổi đầu đến với lí tưởng Đảng. Các tính từ chỉ mức độ như “đậm”, “rộn” đã nói hộ nhà thơ về niềm vui sướng vô biên của chính mình. Hẳn là trước đó, tâm hồn thi sĩ là một khu vườn mùa đông cành khô, lá úa thì giờ đây được gặp gỡ lí tưởng cách mạng, bỗng chốc tâm hồn đó trở thành một khu vườn mùa hạ xanh tươi, ngập tràn ánh nắng mặt trời, nồng nàn, rộn rã tiếng chim ca và ngạt ngào hương sắc “rất đậm hương và rộn tiếng chim”. Vẻ đẹp của khu vườn tâm hồn ấy, đối với Tố Hữu, nhà thơ cộng sản, còn là vẻ đẹp của sức sống mới của một hồn thơ mới:

Có gì đẹp trên đời hơn thế

Người yêu người sống để yêu nhau

Đảng cho ta trái tim giàu

Thẳng lưng mà bước, ngẩng đầu mà bay!

(Bài ca xuân 61)

Hai khổ thơ còn lại của bài thơ là biểu hiện những nhận thức, lẽ sống mới của cái tôi trữ tình. Nhà thơ nguyện dấn thân vào cuộc đời nhân dân, “cùng đổ mồ hôi, cùng sôi giọt máu” với nhân dân. Đó là nhận thức, là giác ngộ, là lẽ sống lớn. Nhà thơ kết nối “những tù nhân khốn nạn của bần cùng”, kết nối “kiếp phôi pha” để rồi cuối cùng làm cho “mạnh khối đời” – khối đại đoàn kết dân tộc.

Xem thêm:

2.2. Khổ hai của bài thơ là khổ thơ biểu hiện những nhận thức, lẽ sống mới của cái tôi trữ tình:

Tôi buộc lòng tôi với mọi người 

Để tình trang trải khắp trăm nơi 

Để hồn tôi với bao hồn khổ 

Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời. 

Giác ngộ lí tưởng, giác ngộ nhận thức, lẽ sống đối với người cộng sản, trước hết là giác ngộ về chỗ đứng. Nhà thơ chủ động, tự giác hòa “cái tôi” với “cái ta” chung của mọi người, tự nguyện đứng trong hàng ngũ những người lao khổ. Từ “buộc” thể hiện ý thức tự nguyện sâu sắc và quyết tâm cao độ của Tố Hữu nguyện gắn bó mật thiết, sống chan hòa với “mọi người”, với “trăm nơi”, với quần chúng đông đảo khắp mọi miền đất nước. Nhóm từ “để tình trang trải” thể hiện tâm hồn nhà thơ như muốn trải rộng với cuộc đời rộng lớn, tạo ra khả năng đồng cảm sâu xa với mọi cảnh ngộ của những cuộc đời cần lao. Đây là điều khác biệt với các nhà thơ Mới đương thời, trong khi Tố Hữu giác ngộ cách mạng và đi theo con đường lý tưởng thì các nhà thơ mới lại đang đau buồn với cái tôi bé nhỏ, cô đơn, chôn chặt niềm đau trong những vần thơ bi lụy. Nhận thức mới của Tố Hữu cũng thật khác xa với nhân vật Hạ Du (Thuốc – Lỗ Tấn), Hạ Du xa rời quần chúng nhân dân để rồi ôm nỗi đau bi kịch của người cách mạng còn Tố Hữu lại biết đứng về nhân dân lao khổ và giác ngộ trong hàng ngũ ấy.

Hai câu sau: “Để hồn tôi với bao hồn khổ… mạnh khối đời” khẳng định tình cảm hữu ái giai cấp của Tố Hữu. Tâm hồn của thi sĩ từ đây sẽ nghiêng về phía “bao hồn khổ” để cảm thông, chia sẻ, để cá nhân hòa vào tập thể, tạo nên một sức mạnh quần chúng đông đảo, vĩ đại. Sau này, khi đã trải qua gần 40 năm đời thơ, đời cách mạng. Tố Hữu cũng đã viết: “Tất cả cùng tôi. Tôi với muôn người. Chỉ là một. Nên cũng là vô số!”. Thật đáng quý biết bao tâm hồn cao đẹp ấy.

2.3. Khổ thơ cuối cùng khép lại là sự chuyển biến sâu sắc trong tình cảm của thi nhân. Là sự hóa thân của cái Tôi vào cái Ta chung của “kiếp phôi pha”:

Tôi đã là con của vạn nhà 

Là em của vạn kiếp phôi pha 

Là anh của vạn đầu em nhỏ 

Không áo cơm, cù bất cù bơ…

   Tố Hữu khẳng định sự chuyển biến tình cảm của mình. Tác giả tự nhận mình  là một thành viên thân thiết ruột thịt trong đại gia đình quần chúng bị áp bức, đau khổ trong xã hội cũ. Các điệp từ “là” cùng với các từ “con”, “em”, “anh” đã khẳng định điều đó. Số từ ước lệ “vạn” chỉ số lượng hết sức đông đảo. Thầy Phan Danh Hiếu

Chính vì những “người anh” phải sống “kiếp phôi pha”, những người “em”… “cù bất cù bơ” ấy mà người thanh niên cộng sản Tố Hữu say mê hoạt động cách mạng, và họ cũng chính là đối tượng sáng tác chủ yếu của nhà thơ Tố Hữu. Không phải ngẫu nhiên mà từ đây, Tố Hữu đã bày tỏ niềm cảm thông sâu sắc với những “em bé mồ côi”, “em bé bán dạo”, “chị vú em”, “cô gái giang hồ”, “lão đầy tớ”… những con người mà tác giả cho đó là “những  tù nhân khốn nạn của bần cùng”.

3. Nghệ thuật thể hiện:

Bài thơ “Từ ấy” là một bài thơ sâu sắc về nội dung, độc đáo về nghệ thuật. Ngòi bút tinh tế, dùng hình tượng thơ táo bạo, chói sáng, giàu khát vọng lãng mạn bay bổng, say mê. Câu thơ mạnh, cảm xúc thơ tràn đầy. Nhạc thơ biến đổi sinh động, hăm hở, dồn dập say sưa, lôi cuốn. Các biện pháp tu từ sử dụng nhuần nhuyễn như: điệp từ, so sánh, ẩn dụ… tất cả đã làm nên một bài thơ hay và lôi cuốn người đọc.

III. KẾT BÀI

Bài thơ “Từ ấy” là một bài thơ của một cái tôi tràn đầy cảm xúc. Đó là cái Tôi lần đầu được giác ngộ lý tưởng và nguyện đem tất cả tinh thần và tuổi trẻ của mình phụng sự cho lý tưởng cao cả ấy. Bài thơ còn là một tuyên ngôn nghệ thuật và mang đậm phong cách thơ Tố Hữu. Nó xứng đáng là một tiếng hát lạc quan, yêu đời, đắm say lí tưởng, ngày nay vẫn làm xúc động hàng triệu trái tim độc giả.

Vui lòng ghi rõ nguồn

Bài viết của Thầy Phan Danh Hiếu

Trường THPT Trấn Biên, Biên Hòa, Đồng Nai

Xem hết Văn học 11: Ở đây