Cảm nhận đoạn trích trong bút ký “Ai đã đặt tên cho dòng sông”

0
71989

Cảm nhận đoạn trích trong bút ký “Ai đã đặt tên cho dòng sông”

Nêu cảm nhận về vẻ đẹp của dòng sông Hương qua đoạn trích sau:

“Phải nhiều thế kỉ qua đi, người tình mong đợi mới đến đánh thức người con gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy cỏ dại. Nhưng ngay từ đầu vừa ra khỏi vùng núi, sông Hương đã chuyển dòng một cách liên tục, vòng giữa khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm, như một cuộc tìm kiếm có ý thức để đi tới nơi gặp thành phố tương lai của nó. Từ ngã ba Tuần, sông Hương theo hướng Nam Bắc qua điện Hòn Chén; vấp Ngọc Trản, nó chuyển hướng sang tây bắc, vòng qua thềm đất bãi Nguyệt Biều, Lương Quán rồi đột ngột vẽ một hình cung thật tròn về hướng đông bắc, ôm lấy chân đồi Thiên Mụ, xuôi dần về Huế. Từ Tuần về đây, sông Hương vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn, vượt qua một lòng vực sâu dưới chân núi Ngọc Trản để sắc nước trở nên xanh thẳm, và từ đó nó trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách, với những điểm cao đột ngột như Vọng Cánh, Tam Thai, Lựu Bảo mà từ đó, người ta luôn luôn nhìn thấy dòng sông mềm như tấm lụa, với những chiếc thuyền xuôi ngược chỉ bé vừa bằng con thoi. Những ngọn đồi này tạo nên những mảng phản quang nhiều màu sắc trên nền trời tây nam của thành phố, “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím” như người Huế thường miêu tả. Giữa đám quần sơn lô xô ấy, là giấc ngủ nghìn năm của những vua chú được phong kín trong lòng những rừng thông u tịch, và niềm kiêu hãnh âm u của những lăng tẩm đồ sộ tỏa lan khắp cả một vùng thượng lưu “Bốn bề núi phủ mây phong – Mảnh trăng thiên cổ bóng tùng Vạn Niên”. Đó là vẻ đẹp trầm mặc nhất chả sông Hương, như triết lí, như cổ thi, kéo dài mãi đến lúc mặt nước phẳng lặng của nó gặp tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga tận bờ bên kia, giữa những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà…”

DÀN Ý

I. MỞ BÀI

          Hoàng Phủ Ngọc Tường là nhà văn chuyên về bút ký. Nét đặc sắc trong sáng tác của ông là ở sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và tính trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với tư duy đa chiều được tổng hợp từ vốn kiến thức phong phú về triết học, văn hóa, lịch sử, địa lý,…Tất cả được thể hiện qua lối hành văn hướng nội, súc tích, mê đắm và tài hoa. Sáng tác của ông gắn liền với tình yêu quê hương, đất nước, con người, đặc biệt là văn hóa Huế: Bút ký “Ai đã đặt tên cho dòng sông” là bút ký hay nhất của nhà văn viết về xứ Huế thơ mộng và con sông Hương xinh đẹp. Trong những dòng văn lai láng chất thơ chất họa về dòng sông ấy, đoạn trích sau là tiêu biểu hơn cả:

            Phải nhiều thế kỉ qua đi, người tình mong đợi mới đến […] giữa những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà…”

II. THÂN BÀI

1.Khái quát

         Bút ký “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” viết ở Huế năm 1981, in trong tập sách cùng tên. Bài ký có ba phần. Sách giáo khoa trích học phần đầu. Với bút ký này, tác giả đã mang đến cho người đọc những cảm nhận thật đầy chất thơ về dòng sông Hương theo dòng chảy của nó từ Trường Sơn cho đến khi chảy qua thành phố Huế và xuôi về biển. Đoạn trích dẫn trên đây là phần đầu đoạn trích sách giáo khoa: vẻ đẹp của sông Hương ở ngoại vi thành phố Huế.

2.Nội dung chính

2.1. Mở đầu đoạn trích là hình ảnh sông Hương chảy qua cánh đồng Châu Hóa, dưới góc nhìn nhân cách hóa, tác giả ví von sông Hương như một “người gái đẹp”:

         Câu văn như thảm lụa ngôn từ dệt nên một huyền thoại đẹp: “phải nhiều thế kỷ qua đi, người tình mong đợi mới đến đánh thức người gái đẹp ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hoá đầy hoa dại”. Hình ảnh được nhân cách hóa, liên tưởng thú vị tới truyện cổ tích “Nàng công chúa ngủ trong rừng”. Hai chữ “mơ màng” gợi tả hình ảnh một giấc ngủ đẹp và đầy quyến rũ của dòng sông, dòng sông như tỉnh như mơ, như thực như mộng. Hình ảnh cánh đồng hoa dại gợi tả một không gian trong trẻo, thơ mộng nhuốm màu cổ tích. Chỉ một câu văn ngắn Hoàng Phủ Ngọc Tường đã làm toát lên vẻ đẹp trong sáng, hồn nhiên của dòng sông, để từ đó, ngòi bút của nhà văn cuốn hút người đọc vào thuỷ trình đầy mê hoặc của Hương giang. 

2.2. Dưới góc nhìn địa lý, hội họa, sông Hương hiện lên với dòng chảy quanh co; dưới góc nhìn nhân cách hóa, sông Hương giống “như một cuộc tìm kiếm có ý thức”.

Giấu khuôn mặt mình vào chân núi Kim Phụng, “sông Hương đã chuyển dòng một cách liên tục, vòng giữa khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm, như một cuộc tìm kiếm có ý thức”. Câu văn mềm mại, uyển chuyển biết bao. Sông Hương sau vài thế kỷ ngủ quên giữa cánh đồng Châu Hóa đã được người tình mong đợi đến đánh thức, nhưng đánh thức rồi người tình không biết đã đi đâu, nên nàng ngơ ngác đi tìm, vô tình cuộc tìm kiếm ấy đã làm cho dòng sông càng trở nên đẹp đẽ. Những từ ngữ như “khúc quanh đột ngột”, “uốn mình”, “đường cong thật mềm” cùng với phép so sánh “như một cuộc tìm kiếm có ý thức” đã gợi ra hình ảnh dòng sông mềm mại, nữ tính, gợi cảm, quyến rũ. Nét đẹp ấy cũng khiến ta liên tưởng đến nét “ngoằn ngoèo”, hay “áng tóc trữ tình” tuôn dài, tuôn dài của sông Đà dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân. Càng cho ta thêm một nét cảm nhận về vẻ đẹp thiên nhiên bao la của đất nước mà thêm trân quý những vẻ đẹp của non sông đất nước mình.

Không chỉ dừng lại ở đó, men theo thủy trình của dòng sông, men theo đường cong mềm mại, thướt tha ấy của cô gái Hương giang nhà văn còn phát hiện ra: “Từ ngã ba Tuần, sông Hương theo hướng nam bắc qua điện Hòn Chén; vấp Ngọc Trản, nó chuyển hướng sang tây bắc, vòng qua thềm đất bãi Nguyệt Biều, Lương Quán rồi đột ngột vẽ một hình cung thật tròn về phía đông bắc, ôm lấy chân đồi Thiên Mụ, xuôi dần về Huế”. Câu văn sử dụng phép liệt kê: điện Hòn Chén, Ngọc Trản, Nguyệt Biều, Lương Quán, Thiên Mụ… mang đến cho người đọc những danh lam thắng cảnh nổi tiếng của xứ Huế cũng như vốn hiểu biết sâu rộng, kiến thức địa lý phong phú của nhà văn. Tác giả sử dụng nhiều động từ chỉ đường nét khiến ta hình dung về dòng chảy trữ tình của con sông thật sống động: “vấp – chuyển hướng – vòng qua – vẽ một hình cung – ôm lấy – xuôi dần…”. Hệ thống động từ đặc tả dòng chảy ấy làm sông Hương hiện lên chân thực, sắc nét, có hồn như một sinh thể sống động và giàu sức sống.

          Quan sát ở điểm nhìn gần hơn: “từ Tuần về đây, sông Hương vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn, vượt qua một lòng vực sâu dưới chân núi Ngọc Trản để sắc nước trở nên xanh thẳm”. Đi trong “dư vang” là đi trong âm vang, trong sự vang vọng của đại ngàn Trường Sơn. Dòng chảy ấy dù uốn quanh, lượn vòng nhưng lưu tốc vẫn còn mạnh mẽ. Hai chữ “vượt qua” gợi hành trình nhọc nhằn, gian truân; và sắc nước “xanh thẳm” là phần thưởng xứng đáng có được sau hành trình nhọc nhằn ấy. Để khi về đến những Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo, dòng sông đã phần nào được kiềm chế sức mạnh. Bản quyền của thầy Phan Danh Hiếu. Từ đây chỉ còn sắc nước xanh thẳm, hiền hoà. Sắc xanh thẳm của nước hoà vào bóng dáng hùng vĩ của “hai dãy đồi sừng sững như thành quách, với những điểm cao đột ngột như Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo” tạo nên bức hoạ đồ mà ca dao người Huế từng ngợi ca: “Đường vô xứ Huế loanh quanh – Non xanh nước biếc như tranh hoạ đồ”. Sắc nước hòa vào sắc núi, sắc đồi và ánh chiếu lên bầu trời Tây Nam thành phố sắc màu lộng lẫy như đóa hoa phù dung mà chỉ riêng Huế mới có: “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”. Cái sắc màu không trộn lẫn ấy có lần cũng đã thổn thức trong thơ của Đoàn Thạch Biền:

Đã bốn lần đến Huế

Vẫn lạ như lần đầu

Sông Hương lơ đãng chảy

Nắng tím vướng chân cầu

Đoạn tả sông Hương thay đổi dòng chảy chỉ có bốn câu văn, bốn câu dài miên man với những từ ngữ đẹp đã tạo ra một bức họa sơn thủy tuyệt đẹp. Người đọc không khỏi tấm tắc ngợi ca cái tài hoa của Hoàng Phủ Ngọc Tường, bởi chỉ một cái vẩy bút mà ông đã tạo nên cái chất “thi trung hữu họa” hiếm thấy với bất cứ tác giả nào viết về sông Hương. Chợt nhớ tới nhà phê bình văn học Lê -ô- nít Lê- ô- nốp của nước Nga hùng vĩ với câu nhận định: “Có hai kiểu nhà văn thường gặp, kiểu nhà văn phóng bút tạo nên những hình tượng góc cạnh, thô mộc; có kiểu nhà văn chỉ vẩy nhẹ ngòi bút mà hình tượng nghệ thuật đã sống động, đẹp đẽ hơn cả cảnh thần tiên”. Vậy chắc ở đây Hoàng Phủ Ngọc Tường là kiểu nhà văn thứ hai – một kiểu nhà văn chỉ cần vẩy bút là đã dệt nên thảm lụa ngôn từ mà điểm tô cho hình tượng nghệ thuật.

2.3. Đoạn trích khép lại bằng hai câu văn miêu tả sông Hương mang vẻ đẹp “trầm mặc như triết lý, như cổ thi”.

         Khi chảy qua miền lăng tẩm đền đài – nơi yên nghỉ của các triều vua, sông Hương như trầm mặc hẳn đi, bởi nàng đang đi qua một “giấc ngủ nghìn năm của những vua chúa được phong kín trong lòng những rừng thông u tịch và niềm kiêu hãnh âm u của những lăng tẩm đồ sộ toả lan khắp cả một vùng thượng lưu: “Bốn bề núi phủ mây phong – Mảnh trăng thiên cổ bóng tùng Vạn Niên”. Các từ ngữ như “u tịch”, “âm u”, “thiên cổ”, “vạn niên” gợi không khí cổ kính và cũng như phần nào giải thích cho vẻ đẹp trầm mặc của sông Hương.

         Nhà văn khẳng định: “Đó là vẻ đẹp trầm mặc nhất của sông Hương, như triết lý, như cổ thi, kéo dài mãi đến lúc mặt nước phẳng lặng của nó gặp tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga tận bờ bên kia, giữa những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà…”. “Trầm mặc” là vẻ đẹp trầm tư, gợi ra cảm giác im lìm, dáng đứng thâm nghiêm sâu lắng, mang nặng nỗi niềm tâm sự, hoài niệm quá khứ. Nét đẹp ấy làm cho đất trời, con người cũng thấy nặng lòng. Bản quyền của thầy Phan Danh Hiếu. So sánh với “triết lý”, triết lý là sự trải nghiệm, là chân lý; “Cổ thi” là vẻ đẹp cổ kính, giàu chất thơ, chất họa. Dòng sông như hội tụ đầy đủ dấu ấn của triết học, thi ca, nhạc họa. Đây cũng chính là cái tôi tài hoa của Hoàng Phủ Ngọc Tường. 

Hai chữ “phẳng lặng” gợi hình ảnh mặt nước trong trẻo, yên bình, không gợn sóng. Hai chữ “ngân nga” gợi âm thanh ngân vang, luyến láy, như kéo dài ra mênh mang trong cõi vô thường. Từ láy “bát ngát” đặt giữa “những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà” gợi ra không gian bao la mang vẻ đẹp bình dị, hiền hòa, lắng đọng như đưa người đọc trôi mênh mang vào một cõi ảo huyền đến nỗi thèm một cái giật mình để dứt ra khỏi cảm giác ấy mà không được, cho đến khi bừng tỉnh bởi tiếng chuông chùa Thiên Mụ. Trong cảm nhận của TS. Trịnh Thu Tuyết thì: “Cái hư vô tịch mịch của tiếng chuông chùa hòa quyện với chất thơ ấm áp của tiếng gà nơi thôn dã đã đưa dòng sông trôi đi giữa mộng và thực, giữa đạo và đời, như thực, như mơ”.

3. Đánh giá nội dung và nghệ thuật

“Ai đã đặt tên cho dòng sông?” là một bút ký xuất sắc của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Hành văn súc tích, giàu chất thơ. Nét đặc sắc làm nên sức hấp dẫn của đoạn trích là cảm xúc sâu lắng được tổng hợp từ một vốn hiểu biết phong phú về văn hóa, lịch sử, địa lý và văn chương cùng một văn phong tao nhã, hướng nội, tinh tế và tài hoa.

   Thành công của đoạn trích nói riêng và bút ký “Ai đã đặt tên cho dòng sông” nói chung chính là nhờ vào một số yếu tố nghệ thuật đã được Hoàng Phủ Ngọc Tường vận dụng một cách nhuần nhuyễn, sáng tạo: Ngôn ngữ trong sáng, phong phú, uyển chuyển, giàu hình ảnh, giàu chất thơ. Sử dụng nhiều phép tu từ như: So sánh, nhân hoá, ẩn dụ, điệp ngữ… Bản quyền của thầy Phan Danh Hiếu. Bút ký có sức liên tưởng kì diệu, sự hiểu biết phong phú về kiến thức địa lý, lịch sử, văn hoá nghệ thuật và những trải nghiệm của bản thân. Giọng văn nhẹ nhàng pha lẫn hoài niệm làm bài ký toát lên nỗi niềm thương nhớ bâng khuâng. Tất cả đã hòa quyện lại dưới ngòi bút Hoàng Phủ Ngọc Tường và chắp cánh, nâng đỡ cho ngòi bút tài hoa ấy thăng hoa cùng tác phẩm.

III. KẾT BÀI

      (Tự làm)

Đề nghị các bạn khi copy đăng lên các trang khác thì vui lòng để nguồn là: Bài viết của thầy Phan Danh Hiếu