Người lái đò Sông Đà – vẻ đẹp của một dòng sông chữ

0
46067

Người lái đò Sông Đà – vẻ đẹp của một dòng sông chữ 

Tác giả bài viết : Đỗ Kim Hồi

“Đẹp vậy thay tiếng hát trên dòng sông”

                            Wladyslaw Broniewski (Ba Lan)

              Nguyễn Tuân chắc hẳn đã tâm đắc lắm với những vần thơ sông của nhà thơ Ba Lan nọ. Chẳng vậy mà sông nước xứ mình đã chảy trên không biết bao nhiêu trang văn đẹp của ông, trong đó có sông Đà, con sông đã trao tên cho một công trình văn xuôi tuyệt tác. Tôi đoán chắc rằng không thể chỉ có nhu cầu săn tìm cảm giác hay cái máu phiêu lãng giang hồ đã xui khiến bước chân Nguyễn Tuân tìm đến dòng chảy vĩ đại này của núi rừng Tây Bắc. Nhất định phải có một tiên cảm, tiên giác nghệ thuật sáng suốt nào mách cho người nghệ sĩ tài hoa về nguồn cảm hứng sông Đà hàng chục năm trước khi “dòng sông ánh sáng” đó thực sự trở thành một địa chỉ lớn của nhạc, hoạ, sân khấu, thơ, văn. Và từ ấy đến nay, cho dù đã có biết bao người khắc, vẽ và kể chuyện về sông Đà, làm thơ và ca hát với sông Đà thì có lẽ vẫn chưa ai vượt hơn được Nguyễn Tuân trong việc biến vùng sông nước ấy thành nghệ thuật, thành một gợi cảm mênh mông. Song để làm nên một niềm gợi cảm sông Đà có tầm cỡ, vóc dáng như của Nguyễn Tuân thì cảm xúc và tài quan sát vẫn còn chưa đủ. Nhớ lại, Xuân Diệu từng thiết tha nói đến sự rất cần thiết phải uyên bác ngay trong một lĩnh vực trữ tình nhất là thơ. Tôi nghĩ Nguyễn Tuân cũng có thẩm quyền như thế, có khi còn hơn thế – dĩ nhiên trong phạm vi lãnh thổ của ông là kí, là tuỳ bút – để chỉ ra rằng sự uyên bác ấy có thể nâng đỡ đến thế nào cho đôi cánh của hào hoa. Càng đọc Nguyễn, lại càng nghiệm ra rằng, nhà văn độc đáo ấy luôn luôn độc đáo trong sự uyên bác, rằng con người tài hoa, tài tình hiếm ai bì kịp ấy cũng đồng thời là con người luôn luôn có những hiểu biết khôn lường, khôn sánh về những gì được nói tới ở văn minh. Trường hợp sông Đà là vậy. Phải là Nguyễn Tuân và có lẽ chỉ có Nguyễn Tuân mới không ngại nhọc công dò đến ngọn nguồn lạch sông, truy tìm đến tận nơi gốc tích khai sinh của sông Đà, để biết chỗ phát nguyên của nó thuộc huyện Cảnh Đông và thoạt kì thuỷ, dòng sông mang những cái tên Trung Hoa mà âm thanh dẫu sao cũng gợi ra khá nhiều thơ mộng: Li Tiên, Bả Biên Giang. Và cũng không dễ có người như Nguyễn, để có thê hạ bút viết đúng ba câu về sắc nước Đà giang đã phải mấy lần bay ngang trên miền sông ấy. Để rồi sau đó, mới nói chắc như đinh đóng cột rằng nước sông Đà không hề đen; trái lại, nó xanh màu ngọc bích dưới trời xuân, khác với sông Gấm sông Lô nước “xanh canh hến” (tác giả mới kì công làm sao trong quan sát và chọn tìm từ!), còn mỗi độ thu về, nước sông Đà lại “lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa”. Cứ theo đây thì ai dám bảo các đấng tài hoa viết văn không khó nhọc? Ai dám bảo rằng cái cốt cách phong lưu tài tử như của Nguyễn Tuân cho phép nhà văn cứ việc thả sức rong chơi, chờ khi thần hứng đến với mình thì chỉ cần một lần phất bút là đã đủ làm nên tấm lụa ngôn ngữ đẹp mê hồn?
             Nhưng chớ nên quên Nguyễn còn là một bản ngã vãn chương không hề giống với một ai, và cũng không thể có một ai mong bắt chước. Những trang viết trong Người lái đò Sông Đà đẹp còn vì tác giả đã in cái bản ngã độc đáo ấy vào sông nước Đà giang, đã thêm cái vẻ đẹp rất chủ quan của tâm hồn và tưởng tượng vào cái vẻ đẹp rất khách quan của dòng sông, để dần dần làm cho dưới ngòi bút, tuôn chảy một con sông Đà mang dấu ấn thật riêng của nhà văn, một con sông Đà đã được chinh phục và chi phố bởi thứ quyền năng riêng của người cầm bút mà Nguyễn Tuân vốn có nhiêu hơn ai hết – tôi muốn nói đến thứ quyền năng của ngôn từ.

Con sông Đà hung bạo dưới ngòi bút Nguyễn Tuân

          Hãy thử lấy ra đây một trong rất nhiều ví dụ. Ở đầu trích đoạn Người lái đò Sông Đà trong sách Văn học 12 có đoạn tả “cảnh đá bờ sông đựng vách thành” và những bức thành vách đá cao chẹt chật lấy lòng sông hẹp.
           Cái hẹp ấy của  lòng sông, tác giả đã tả nó ra theo đủ cách: Nào là ” Mặt sông lúc ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt giời”. Nào là con hổ con nai có thể vọt qua sông, và chỉ cần nhẹ tay thôi cũng có thể ném hòn đá từ bờ này sang bên kia vách. Những ý văn như thế kể cũng đã thú lắm. nhưng vấn còn chưa khiến ta phải thán phục, phải ghê gớm cho tài nghệ của Nguyễn Tuân như trong câu cuối đoạn này: “Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, dang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tất phụt đèn điện”. Một sức bút bình thường làm sao có nổi một cái so sánh vừa chính xác, tinh tế, lại vừa bất ngờ và lạ lùng đến thế. Bên cạnh những câu viết thế này, tôi chắc nhiều người sẽ nhận ra mình nghèo nàn biết bao nhiêu cả vể từ ngữ và ý tưởng. Có cảm giác cái bậc văn nhân hằng biết sợ cái cảnh “mình bỗng chốc trở thành người cùng đường bên dòng sông chữ quạnh trắng thê lương” ấy luôn luôn lục lọi đến tận kiệt cùng cái kho ấn tượng đầy ăn ắp để tìm cho bằng ra một cách nói có sức kinh động hồn trí con người.
            Nguyễn Tuân đang nói với ta về một sông Đà hung bạo. Một nhận xét nhu thế sẽ không có nhiều khả năng gây sự ngạc nhiên, nếu chúng ta không tận mất thấy nhà văn dã hao tổn công phu đến thế nào đề bát sự hung bạo kia phải nổi hẳn lên thành hình khối và gào thét lên trong muôn vạn âm thanh. Người đọc đã như được tác giả đặt cưỡi lên con thuyền đang vun vút phăng phăng xuống thác để cảm thấy quanh mình nước thác hò reo bốn mặt và những hòn đá ngỗ ngược phía trước kia như nhất tẽ “nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền”. Không khó khăn gì để thấy trong đoạn này, nhà văn đã sử dụng rất nhiều nhân hoá, để nhờ đó, đọc ra từng sắc diện người trong những hình thù đá vô tri. Ống đã cổ dùng thật hết sức mạnh điêu khắc của ngôn từ để truyền hồn sống vào từng thớ đá. Dễ mấy ai nhìn ra những khuôn mặt đá kiểu thế này: “Một hòn ấy trông nghiêng thì y như là đang hất hàm hỏi cái thuyền phai xưng tên tuổi trước khi giao chiến. Một hòn khác lùi lại một chút và thách thức cái thuyền có giỏi thì tiến gần vào”. Tồi chắc những chữ như “hất hàm”, được viết tài đến thế, thì hoặc phải xoẹt đến trong óc nhà văn như một ánh chớp thiêng của luồng cảm hứng và lập tức định vị ngay trong câu viết, nếu không thì phải gò lấy nó bằng cả một “từ công phu”.
        Cái dáng đá hất hàm ấy trông nó xấc xược, hỗn hào, du côn một cách rất  là hiện đại. Nhưng đọc cả đoạn văn, vẫn cảm tưởng thấy tác giả Người lái đò Sông Đà cứ như muốn vừa tìm sự hoà ứng vừa như muốn tranh đua với ca khúc thứ XII của Ôđixê bất hủ, đoạn tả chiếc thuyền của Uylixơ vượt qua khoảng giữa hai con quái thạch Karip và Xila. Hãy nghe lại âm vang hào tráng của Hômerơ từ bao nhiêu nghìn năm trước: “Chúng tôi… chèo thuyền tiến thẳng vào eo biển hiểm nghèo một bên là Xila, một bên là Karip ùng ục ngốn nước biển. Mỗi lần nó nhả nước ra, cả biển khơi đều chuyển động, sôi lên như nước trong chảo đặt trên một bếp lửa hồng… Rồi khi nó lại nuốt nước mặn vào thì làm biển sùng sục cuộn lên; vách đá xung quanh kêu réo ghê sợ, và đáy biển lộ ra với mặt cát đen thẫm… Có phải là ta đã gặp lại trong cái hung bạo của sông Đà hôm nay rất nhiều thần thái cái hung bạo của chốn eo biển nào rất xa xôi tận thời cổ đại?
          Người ta bảo trong các nhà văn thật lớn thường vẫn còn một đứa trẻ thơ, và đứa trẻ ấy giúp nhà văn giữ được cái nhìn cảm tính trong trẻo hồn nhiên mà người lớn vẫn để cằn cỗi héo tàn đi trên đường đời khó nhọc. Trường hợp Người lái đò Sông Đà có lẽ cho phép ta được nghĩ thêm: trong đôi mắt của nhà văn lớn hôm nay hình như vẫn lấp lánh tia mắt không chỉ của tuổi thơ đời người mà còn của cả thòi ấu thơ nhân loại. Và của cả những giai đoạn vẫn cổ xưa nhưng có gần gũi chúng ta hơn. Đọc những dòng viết về thạch trận Đà giang, tôi cứ cảm thấy nó phảng phất những trận đổ trường xà, bát quái cũng có đủ cửa tử cửa sinh trong truyện cũ. Rồi lại chợt nhớ ra Gia Cát Khổng Minh cũng đã có lần lấy đá làm binh. Cứ thế, sự dữ dội của sông Đà được nhân mãi lên trong trùng trùng liên tưởng.
        Nhưng đoạn văn tả đá thác sông Đà bủa vây, chận bắt một chiếc thuyền xuôi đơn độc tôi thấy không chỉ có một màu hung tợn. Còn có thể cảm nhận ở đây bóng dáng của Nguyễn Tuân như một nhạc trưởng đang điều khiển một dàn giao hưởng chơi thật hùng tráng bài ca của gió thác xô sóng đá. Ban đầu, tác giả mới để cất lên khúc dạo đầu với những cung bậc nỉ non của một dòng nước thác “nghe như là oán trách gì, rói lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích”. Thế rổi bất ngờ âm thanh được phóng to hết cỡ ,các nhạc khí bừng bừng thét lên khúc nhạc của một thiên nhiên đang ở đỉnh điểm của một cơn phấn khích mạnh mẽ và man dại, trong đó âm vang cuồng loạn của núi rừng được đưa vào để thanh viện cho sự diễn tả con thác giận dữ âm ầm va đập vào bờ đá. Tiếng sóng thác – nhà văn viết – “nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng”. Dám lấy lửa để tả cái vốn đối lập với lửa là dòng nước, dám lấy rừng để tả sông. Nguyễn Tuân quả đã chơi ngông lắm trong nghệ thuật. Nhưng ông chơi ngông mà ta thì được: ta được một cái nhìn tổng quan hơn và thú vị hơn về sự tương giao sức mạnh giữa các lực lượng tự nhiên. Cũng vậy, tôi cho rằng rất nên chiêm ngưỡng vẻ đẹp kì vĩ của tạo hoá trong những câu viết thế này: “Ngoặt khúc sông lượn thấy sóng bọt đã trắng xoá cả một chân giời đá”. Và tôi nghĩ lòng Nguyễn Tuân chắc cũng sảng khoái hào hứng lắm khi nó rung lên với “trận nước vang trời thanh la não bạt”.

Ông lái đò và cảnh vượt thác

        Trên đây là hình ảnh của một thiên nhiên mà Nguyễn Tuân từng đã muốn “trông nó thành ra diện mạo và tâm địa một thứ kẻ thù số một”. Nhưng cũng rất đúng nếu nói rằng thiên nhiên ấy cũng chính là kẻ tôn vinh số một giá trị của con người.
       Thật thế, người lái đò sông Đà kia sẽ là ai, nếu con thuyền của ông không phải vật lộn với “dòng thác hùm beo đang hồng hộc thế mạnh trên sông đá”? Có thể người ấy sẽ mang một vẻ đẹp nào đó của một loại ông ngư, ông chài, ông lái… nhưng sẽ không thể trở thành đối tượng của một khúc hùng ca. Trái lại, chính cái hùng vĩ của sóng của thác, của sông nước Đà giang sẽ đưa con người dám đương đầu và chiến thắng thần đá thần sông lên hàng oai linh tối thượng.
       Người xưa vẫn coi “cưỡi cơn gió mạnh, đạp đầu sóng dữ” là biểu trưng cho một lí tưởng sống anh hùng. Thì ông lái đò sông Đà này, dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân cũng chính là con người cưỡi gió đạp sóng theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng đấy còn gì! Nhà văn đã dụng tâm diễn tả cuộc chiến giữa ông lái với dòng sông theo hướng: thoạt đầu tưởng như hai bên rất không cân sức. Nào là, quanh con người đơn độc, “mặt nước hò la vang dậy…ùa vào mà bẻ gãy cán chèo”. Nào là “sóng nước như thế quân liều mạng vào sát nách mà đá trái mà thúc gối vào bụng vào hông thuyển”, để đội thuyền lên, để lật ngửa mình thuyền giữa vang trời thác réo. Các luồng sóng thì thi nhau “đánh hổi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm” vào chỗ dễ tổn thương nhất của con người… Sẽ tốn khá giấy mực đấy, nếu muốn kể hết ra đấy cái khối lượng hùng hậu các từ ngữ mà Nguyễn Tuân đã chở về từ bên nhà võ để hào phóng vốc tung ra trên các trang văn!
       Vậy mà đối địch lại, ông đò có những gì? Một chiếc thuyền mỏng manh, trên đó, con người thật nhỏ bé biết bao giữa luồng thác đang giận dữ, hai tay ghì níu lấy mái chèo, đôi chân kẹp chật vào cuống lái, mặt méo bệch hẳn đi do “cố nén vết thương” (Xin được lưu ý rằng Nguyễn Tuân không viết “méo xệch” mà viết là “méo bệch”. Ra cái đau đớn tàn bạo của dòng nước nó còn làm cho bợt bạt cả sắc mặt người).
       Thế nhưng ba lớp trùng vi của một thạch trận đầy cửa tử đã không ăn chết được một con thuyền đơn độc hết chỗ lùi. Các dũng tướng phá trận ngày xưa, nếu vào đúng cửa sinh và đánh thốc ra đúng cửa sinh là đối phương tan tành thế trận. Ông đò của Nguyễn Tuân cũng thế. Nhà vàn như muốn, qua trường hợp ông đò, cùng mỗi chúng ta nghiền ngẩm điều triết lí: giữa cái thế giới của độc dữ và nham hiểm, cái thế giới đầy sức mạnh mạn dại và lập lờ cạm bẫy, con người vẫn đủ khả năng tìm thấy luồng sinh. Người lái đò của Nguyễn Tuân không có phép màu. Ông đâu có đôi cánh tay Hec-quyn nào để sánh được với sức lực của Thuỷ Tinh. Nhưng ông “đã nắm chắc binh pháp của thần sông, thần đá”. Và cái kinh nghiệm đò giang sông nước, lên thác xuống ghềnh, không, phải nói là cái trí tuệ của người lao động ấy đã khiến cho ông lái, dù trong tay chỉ có cây chèo (cái que nhỏ giữa nguy nga sóng thác!) vẫn có thể phá thành vượt ải như một chiến tướng bách thắng trong sự nghiệp đấu tranh chống thiên nhiên. Một cảm hứng hào hùng đã khiến ngòi bút Nguyễn Tuân tả một cuộc vượt thác sông Đà vẫn diễn ra thường nhật thành một trận đánh biến ảo, hấp dẫn, một khúc hát ca ngợi chiến công của một bậc anh hùng. Có quá lời, có đáng ngạc nhiên chăng, nhất là ở một nhà văn văn có tiếng là kiêu bạc? Tôi không cho là như thế. Theo tôi, đừng nghĩ Nguyễn Tuân chỉ ca ngợi một người. Ông ca ngợi Lao Động, ca ngợi Con Người, ông theo cách của mình làm cho “hai tiếng Con Người vang lên kiêu hãnh biết bao!”. Người lái đò sông Đà – nhà văn muốn vậy – thể hiện cái tư thế ngự trị của Con Người trước Thiên Nhiên thần thánh.

Sông Đà trữ tình thơ mộng

      Và khi trong thiên tùy bút của Nguyễn Tuân mái chèo của ông đò vừa ngừng chống nhau cùng thác đá thì dòng sông Đà bỗng nhiên đổi vẻ. Lời văn của Nguyễn bây giờ cũng bềnh bồng với bầu trời mùa xuân mùa thu, nơi tác giả từ trên tàu bay mà nhìn xuống “từng nét sông tãi ra trên đại dương đá lờ lờ bóng mây dưới chân mình”. Để từ đó, bậc du tử tài hoa đã vẫy bút vẽ ra cả một bức tranh thuỷ mặc chỉ trong một câu văn, cái câu sẽ còn vương vấn mãi trong hồn bao bạn đọc: “Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở họa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”.
      Nếu được phép tỏ bày ý thích riêng, thì quả thực, cảm tình của tôi có phần được đặt nhiều hơn vào đoạn tả con sông Đà trữ tình này. Làm sao có thể không yêu lối viết của Nguyễn trong cái khúc nói về cái lần nhà văn “nhìn Sông Đà như một cố nhân”. Lúc đầu, chỉ là cảm giác còn mơ hồ về một sự “thèm chỗ thoáng”, do “ở rừng đi núi cũng đã hơi lâu”, thậm chí còn “quên đi mất là mình sắp đổ ra Sông Đà”. Rồi con sông hiện ra, nhưng chỉ một chút thôi, loang loáng như nghịch ngợm, đúng là cảm giác về cái nhìn con sông thấp thoáng, xa xa của con người còn phải bộ hành trong rừng cây, trên đèo dốc. Chợt kịp khi nhận ra được dòng sông – người bạn cũ thì sao mà nó sâu xa, ngơ ngẩn thế, trong cái ánh “yên hoa tam nguyệt” đọng sắc hoe hoe vàng tự thuở Đường thi. ít nhiều còn hiểu được vì sao cái vui gặp lại sông Đà cố nhân nó giống như “nối lại chiêm bao đứt quãng”. Nhưng thật khổng biết tại làm sao tác giả lại cảm giác được “nắng giòn tan… ”? Chỉ biết khi ba chữ ấy đã viết ra rồi thì rõ là không thể nào đúng hơn, hay hơn, không thể nào đổi khác. Và cứ thế, cái “đằm đằm âm ấm” của nắng mùa xuân trên dòng sông xuân lâu ngày gặp lại nó dư sức làm thấm thía thêm niềm hạnh phúc được sống trên mặt đất này.
        Nhưng kì diệu hơn nữa, theo tôi, là đoạn văn bắt đầu từ câu viết: “thuyền tôi trôi trên Sông Đà”. Câu văn viết toàn thanh bằng, đẹp như một lời thơ. Mà đoạn văn xuôi ấy, sao tôi thấy nó thơ hơn nhiều lắm so với bao nhiêu bài thơ tôi đã đọc. Chắc phải có người thơ nào thèm muốn tạo được sự lặng lẽ đầy mơ mộng của một mũi đò lừ lừ trôi giữa đôi bờ hoang dại, cái lặng lẽ tuyệt đối để ru hồn người vào cái ảo giác về bờ sổng tiền sử, vể một nỗi niềm cổ tích hay hoài niệm về thời Lí thời Lê… Và là cái lặng lẽ mơ màng đến độ con người chờ mong một sự giật mình để rũ mình ra khỏi giấc mơ xưa mà không được. Mùa xuân dòng Đà giang được nhà văn cho e ấp tỏ mình qua mấy lá non nhú lên trên một nương ngô và những nõn búp cỏ gianh đồi núi. Rồi con hươu, mới tuyệt làm sao hình ảnh “con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương”. Nhẩm lại lúc viết Sông Đà, Nguyễn Tuân đã đến bờ tuổi ngũ tuần, và kể thì hồn văn ấy đã già từ Vang bóng một thời, từ Một chuyến đi. Nghĩ thế lại càng thấy quý cái bờ ngỡ non tơ đến tuổi năm mươi lại nảy lộc trong nhà văn bên một dòng sông, một cuộc đời mới mẻ.
        Và cảm xúc đáng quý ấy cứ du dương mãi trong tôi vói những âm thanh văn xuôi rất đáng gọi là “nên câu tuyệt diệu”: “Hỡi ông khách Sông Đà có phải ông cũng vừa nghe thấy một tiếng còi sương?”. “Đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi… Dòng sông quãng này lững lờ như nhớ thương những hòn đá thác xa xôi để lại trên thượng nguồn Tây Bắc”… Tôi cảm thấy chiếc bè thơ kết bằng những câu văn xuôi ấy đem lại cho mình một thứ nhã thú văn chương mà phải nói rằng cũng còn hiếm gặp ở trong đời.

         Nhưng tác giả Người lái đò Sông Đà cũng không phải con người duy mĩ. Ta trọng sự tinh tế của ông trong cảm thức vể cái đẹp. Nhưng qua thiên tuỳ bút, ta hiểu ràng cái còn đáng trọng hơn nữa của ông vẫn là tình yêu thiết tha thiên nhiên đất nước, là sự tôn kính công sức Lao Động của Con Người.

Tác giả bài viết : Đỗ Kim Hồi