Phân tích bài thơ Tây Tiến Quang Dũng
Phân tích 14 câu thơ đầu bài thơ Tây Tiến
Bản tóm tắt.
Bài soạn của Thầy Phan Danh Hiếu – chủ biên nhiều sách tham khảo.
I. Tác giả, tác phẩm
- Quang Dũng là nghệ sĩ đa tài: làm thơ, vẽ tranh, soạn nhạc… Nhưng thành công nhất vẫn là thơ. Thơ QD là tình yêu bất diệt với “Xứ Đoài mây trắng” quê hương của nhà thơ. Là cảm hứng lãng mạn, hào hoa về cuộc sống kháng chiến và con người kháng chiến. Ông có nhiều vần thơ hay viết về lính trong đó tiêu biểu có bài Tây Tiến.
- Tác phẩm
– Đơn vị Tây Tiến được thành lập năm 1947 với nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới Lào Việt. Thành phần của đơn vị Tây Tiến phần đông là người Hà Nội. Địa bàn và cuộc sống chiến đấu của họ vô cùng gian khổ, thiếu thốn. Đầu năm 1948 đơn vị Tây Tiến giải thể để thành lập trung đoàn 52. Quang Dũng chuyển sang đơn vị khác.
– Tây Tiến ra đời không bao lâu sau đó tại Phù Lưu Chanh một ngôi làng nhỏ ở Hà Đông. Sau đó bài thơ được in trong tập Mây đầu ô.
II. KIẾN THỨC CƠ BẢN
1. Khổ 1 ( Sông Mã … nếp xôi)
1.1. Bài thơ mở đầu bằng hai câu thơ gợi nhớ gợi thương
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
HÃY ĐĂNG KÝ KÊNH YOUTUBE CỦA THẦY ĐỂ NHẬN BÀI GIẢNG. BẤM VÀO
- Vần “ơi” kết hợp từ láy “chơi vơi” là vần bằng tạo âm hưởng của tiếng gọi đồng vọng miên man không dứt câu thơ sâu lắng bồi hồi ngân dài từ lòng người vọng vào thời gian năm tháng lan rộng lan xa trong không gian. Nỗi nhớ như có hình dáng của núi non của hồn cây vách đá con sông.
- Tác giả gọi tên con Sông Mã đầu tiên trong nỗi nhớ của mình. Vì con sông Mã là người bạn là nhân chứng đã theo suốt bước chân quân hành chứng kiến biết bao buồn vui bao mất mát hi sinh vất vả của người lính TT. Gọi tên TT là gọi tên đồng đội gợi nhớ bạn bè.
- Điệp từ “nhớ” được nhắc lại hai lần góp phần tô đậm cảm xúc nhớ nhung dâng trào của tác giả. Chơi vơi là trạng thái trơ trọi giữa khoảng không rộng không thể bấu víu vào đâu cả. Nhớ chơi vơi có thể hiểu là một mình giữa thế giới hoài niệm mênh mông bề bộn không đầu không cuối không thứ tự thời gian không gian. Đó là nỗi nhớ da diết miên man bồi hồi làm cho con người có cảm giác đứng ngồi không yên. Và nỗi nhớ ấy tiếng gọi ấy đang đưa nhà thơ về với những kỉ niệm không quên của một thời gian khổ.
1.2. Đó là nỗi nhớ về cuộc hành quân giữa núi rừng miền Tây vừa hùng vĩ lại vừa thơ mộng trữ tình được cảm nhận bằng cảm hứng lãng mạn và tâm hồn lãng mạn hào hoa.
- Tác giả gợi nhắc nhiều địa danh xa lạ: Sài Khao Mường lát Pha Luông Mường Hịch Mai Châu… gợi bao cảm xúc mới lạ tác giả như đưa người đọc lạc vào những địa hạt heo hút hoang dại để từ đó dõi theo bước chân quân hành của người lính.
- 6 câu thơ tiếp theo ” Sài khao….xa khơi” diễn tả thật đắc địa sự hùng vĩ của núi rừng miền Tây. 6 câu thơ này là bằng chứng đặc sắc của “thi trung hữu họa” (trong thơ có họa):
Cụ thể:
Con đường hành quân thật gian nan vất vả nguy hiểm với dốc cao vực thẳm:
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
+ Trên đỉnh Sài Khao sương dày đến độ lấp cả đoàn quân. Đoàn quân hành quân trong sương lạnh giữa núi rừng trùng điệp mệt mỏi rã rời. Tuy vậy họ vẫn thấy con đường hành quân thật đẹp và thơ mộng: đi trong sương trong hoa đêm hơi.
+ Đường đi toàn dốc cao được diễn tả với nhiều từ láy tạo hình “khúc khuỷu” (quanh co khó đi) “thăm thẳm” (diễn tả độ cao độ sâu) “heo hút” (xa cách cuộc sống con người). Câu thơ sử dụng nhiều thanh trắc đi liền nhau “dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm“ (bảy chữ mà đã có tới 5 vhwx là thanh trắc) khiến khi đọc lên ta có cảm giác trúc trắc mệt mỏi như đang cùng hành quân với đoàn binh vậy.
+ Đỉnh núi mù sương cao vút. Núi cao tận mây mây nổi thành cồn mũi súng chạm trời. Mũi súng của người chiến binh được nhân hóa tạo nên một hình ảnh: “súng ngửi trời” giàu chất thơ mang vẻ đẹp cảm hứng lãng mạn cho ta nhiều thi vị. Nó khẳng định chí khí và quyết tâm của người chiến sĩ chiếm lĩnh mọi tầm cao mà đi tới “Khó khăn nào cũng vượt qua – Kẻ thù nào cũng đánh thắng!”. Chính vì chất lính trẻ trung ấy mà trước thiên nhiên dữ dội người lính TT không bị mờ đi mà nổi lên đầy thách thức.
+ Thiên nhiên núi đèo xuất hiện như để thử thách lòng người: “ngàn thước lên cao ngàn thước xuống”. Hết lên lại xuống xuống thấp lại lên cao đèo nối đèo dốc tiếp dốc không dứt. Câu thơ được tạo thành hai vế tiểu đối: “Ngàn thước lên cao // ngàn thước xuống” làm câu thơ như bẻ đôi diễn tả con dốc với chiều cao sâu rợn ngợp: nhìn lên cao chót vót nhìn xuống sâu thăm thẳm. Hình tượng thơ cân xứng hài hòa cảnh tượng núi rừng hùng vĩ được đặc tả thể hiện một ngòi bút đầy chất hào khí của nhà thơ – chiến sĩ.
+ Có cảnh đoàn quân đi trong mưa: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Câu thơ được dệt bằng những thanh bằng liên tiếp gợi tả sự êm dịu tươi mát của tâm hồn những người lính trẻ trong gian khổ vẫn lạc quan yêu đời. Trong màn mưa rừng tầm nhìn của người chiến binh Tây Tiến vẫn hướng về những bản mường những mái nhà dân hiền lành và yêu thương nơi mà các anh sẽ đến đem xương máu và lòng dũng cảm để bảo vệ và giữ gìn.
+ Sự dữ dội của núi rừng cũng vắt kiệt sức người: “Anh bạn dãi dầu không bước nữa/ Gục lên súng mũ bỏ quên đời”. Cái chết đậm chất bi hùng: Chết trong tư thế đẹp ôm chắc cây súng trong tay sẵn sàng chiến đấu không quên nhiệm vụ của người lính. Hiện thực chiến tranh xưa nay vốn như thế! Sự hy sinh của người chiến sĩ là tất yếu. Xương máu đổ xuống để xây đài tự do. Vần thơ nói đến cái mất mát hy sinh nhưng không chút bi luỵ thảm thương.
+ Ta trở lại đoạn thơ trên gian khổ không chỉ là núi cao dốc thẳm không chỉ là mưa lũ thác ngàn mà còn có tiếng gầm của cọp beo nơi rừng thiêng nước độc nơi đại ngàn hoang vu:
“Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”
“Chiều chiều…” rồi “đêm đêm” nhưng âm thanh ấy “thác gầm thét” “cọp trêu người” luôn khẳng định cái bí mật cái uy lực khủng khiếp ngàn đời của chốn rừng thiêng. Chất hào sảng trong thơ Quang Dũng là lấy ngoại cảnh núi rừng miền Tây hiểm nguy để tô đậm và khắc họa chí khí anh hùng của đoàn quân Tây Tiến. Mỗi vần thơ đã để lại trong tâm trí người đọc một ấn tượng: gian nan tột bậc mà cũng can trường tột bậc! Đoàn quân vẫn tiến bước người nối người băng lên phía trước. Uy lực thiên nhiên như bị giảm xuống và giá trị con người như được nâng cao hẳn
1.3. Hai câu cuối đoạn thơ cảm xúc bồi hồi tha thiết. Như lời nhắn gửi của một khúc tâm tình. Như tiếng hát của một bài ca hoài niệm vừa bâng khuâng vừa tự hào:
“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
“Nhớ ôi!” tình cảm dạt dào đó là tiếng lòng của các chiến sĩ Tây Tiến “đoàn binh không mọc tóc“. Câu thơ đậm đà tình quân dân. Hương vị bản mường với “cơm lên khói” với “mùa em thơm nếp xôi” có bao giờ quên? Hai tiếng “mùa em” là một sáng tạo độc đáo về ngôn ngữ thi ca nó hàm chứa bao tình thương nỗi nhớ điệu thơ trở nên uyển chuyển mềm mại tình thơ trở nên ấm áp.
“Nhớ mùi hương” nhớ “cơm lên khói” nhớ “thơm nếp xôi” là nhớ hương vị núi rừng Tây Bắc nhớ tình nghĩa nhớ tấm lòng cao cả của đồng bào Tây Bắc thân yêu. Mười bốn câu thơ trên đây là phần đầu bài “Tây Tiến” một trong những bài thơ hay nhất viết về người lính trong 9 năm kháng chiến chống Pháp. Bức tranh thiên nhiên hoành tráng trên đó nổi bật lên hình ảnh chiến sĩ can trường và lạc quan đang dấn thân vào máu lửa với niềm kiêu hãnh
” Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh…”.
Đoạn thơ để lại một dấu ấn đẹp đẽ về thơ ca kháng chiến mà sự thành công là kết hợp hài hòa giữa khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn.Nửa thế hệ đã trôi qua bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng ngày một thêm sáng giá.
—————————-
Xem thêm: Phân tích đoạn 2 Tây Tiến
Thầy Phan Danh Hiếu
Biên Hoà, Đồng Nai