Phân tích bài thơ Tây Tiến

0
19200
logo A

Phân tích bài thơ Tây Tiến

 

  • LƯU Ý: ĐÂY LÀ BẢN TÓM TẮT KIẾN THỨC CƠ BẢN.
  • ĐỐI VỚI HỌC SINH Ở XA – ĐỂ HỌC ĐẦY ĐỦ HƠN – HÃY THAM GIA KHOÁ HỌC ONLINE 

I. Giới thiệu chung

  1. Tác giả:

Quang Dũng là một người nghệ sĩ đa tài: viết văn, làm thơ, vẽ tranh, soạn nhạc. Nhưng Quang Dũng trước hết là một nhà thơ mang hồn thơ lãng mạn, tài hoa. Là nhà thơ của “xứ Đoài mây trắng”, thơ Quang Dũng giàu chất nhạc, chất họa. Ông rất thành công với những bài thơ viết về người lính.

  1. Tác phẩm:

– Tây Tiến là một đơn vị quân đội thành lập đầu năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào, bảo vệ biên giới Việt – Lào và đánh tiêu hao lực lượng quân đội Pháp ở Thượng Lào cũng như ở miền tây Bắc Bộ Việt nam. Địa bàn đóng quân và hoạt động của Tây Tiến khá rộng, gồm các tỉnh Sơn La, Lai Châu, Hòa Bình, miền tây Thanh hóa và cả Sầm Nưa (Lào). Chiến sĩ Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội, trong đó có nhiều học sinh, sinh viên. Đoàn quân Tây Tiến sau thời gian hoạt động ở Lào, trở về Hòa Bình thành lập trung đoàn 52.

Quang Dũng là chiến sĩ trong đơn vị Tây Tiến từ ngày đầu thành lập. Cuối năm 1948, chuyển sang đơn vị khác, nhớ đơn vị cũ, ông đã viết bài thơ này. Bài thơ được viết tại làng Phù Lưu Chanh, lúc đầu có tên là “Nhớ Tây Tiến”, sau đổi thành “Tây Tiến”, in trong tập “Mây đầu ô”.

– Bao trùm bài thơ “Tây Tiến” là nỗi nhớ của tác giả về thiên nhiên, con người miền Tây, về những người lính Tây Tiến anh hùng. Bài thơ gồm bốn đoạn.

II. Đọc hiểu

  1. Đoạn 1: 14 câu thơ đầu

a/ Mở đầu bài thơ là tiếng gọi cất lên từ nỗi nhớ nhung tha thiết:

            – Sông Mã là nỗi nhớ đầu tiên của Quang Dũng. Vì con sông Mã là người bạn, là nhân chứng đã theo suốt chặng đường hành quân, chứng kiến bao buồn vui, mất mát, hi sinh, vất vả của người lính Tây Tiến. Gọi tên Tây Tiến là gọi tên đồng đội, gợi nhớ bạn bè của một thời chinh chiến.

            – Nghệ thuật sử dụng vần “ơi”, kết hợp từ láy “chơi vơi” là vần bằng tạo âm hưởng của tiếng gọi đồng vọng miên man không dứt.

            – Điệp từ “nhớ” được nhắc lại hai lần góp phần tô đậm cảm xúc nhớ nhung dâng trào của tác giả. Đặc biệt là cách nói “nhớ chơi vơi”. “Chơi vơi” là trạng thái trơ trọi giữa khoảng không rộng, không thể bấu víu vào đâu được. “Nhớ chơi vơi” có thể hiểu là một mình giữa thế giới hoài niệm mênh mông, bề bộn, không đầu, không cuối, không thứ tự thời gian, không gian. Đó là nỗi nhớ da diết, miên man, bồi hồi làm cho con người có cảm giác đứng ngồi không yên. Và nỗi nhớ ấy, tiếng gọi ấy đang đưa nhà thơ về với những kỉ niệm không quên của một thời gian khổ.

b/ Các câu còn lại, tác giả diễn tả cụ thể nỗi nhớ. Ta bắt gặp ở đó con đường hành quân đầy gian khổ nhưng thật trữ tình nơi núi rừng miền Tây hùng vĩ, thơ mộng.

+ Nhớ về Sài Khao và Mường Lát

  • Liệt kê hai cái tên: “Sài Khao”, “Mường Lát” xa lạ, Quang Dũng như gieo vào lòng người đọc ấn tượng về một vùng đất xa xôi, hoang dã.
  • Hình ảnh “sương lấp đoàn quân mỏi” giàu sức gợi tả. Trên đỉnh Sài Khao, sương dày đến độ “lấp” cả đoàn quân. Chữ “lấp” là động từ mạnh gợi cảm giác về sự khắc nghiệt dữ dội của thiên nhiên. Đoàn quân đi trong sương lạnh giữa núi rừng trùng điệp. Chữ “mỏi” làm hiện lên trước mắt ta hình ảnh của một đoàn quân mệt mỏi, rã rời. Tuy vậy họ vẫn thấy con đường hành quân thật đẹp và thơ mộng. Hình ảnh “hoa về trong đêm hơi” không chỉ gợi ra cái giá lạnh mà còn là một hình ảnh nên thơ. Đoàn quân Tây Tiến mất hút trong “sương lấp” rồi lại xuất hiện trong khung cảnh “hoa về trong đêm hơi” đầy lãng mạn. Chữ “hoa về” rất gợi, có thể là hoa đang nở, hương hoa đang dậy lên trong đêm; mà cũng có thể là bó đuốc trên tay người lính qua “đêm hơi” trở nên lung linh như hoa; cũng có thể hiểu – mỗi anh lính như những bông hoa đang về với bản làng.

+ Nhớ về cuộc hành quân vượt qua những con dốc: (dẫn chứng thơ)

  • Các từ láy tạo hình: “khúc khuỷu” (quanh co, khó đi), “thăm thẳm” (diễn tả độ cao, độ sâu), “heo hút” (xa cách cuộc sống con người) gợi hình ảnh những con dốc quanh co, gập ghềnh. Câu thơ sử dụng nhiều thanh trắc đi liền nhau “dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm” khiến khi đọc lên ta có cảm giác trúc trắc, mệt mỏi như đang cùng hành quân với đoàn binh vậy. Điệp từ “dốc” cùng cách ngắt nhịp 4/3 của câu thơ “dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm” tạo thành hai vế. Dốc cao dựng đứng hiểm trở, dốc tiếp dốc, trùng điệp.
  • Câu thơ “Heo hút cồn mây súng ngửi trời” cho thấy đỉnh núi mù sương cao vút. Núi cao tận mây, mây nổi thành cồn, mũi súng chạm trời. Mũi súng của người chiến binh được nhân hóa tạo nên một hình ảnh: “súng ngửi trời” giàu chất thơ, mang vẻ đẹp lãng mạn. Nó khẳng định chí khí và quyết tâm của người chiến sĩ chiếm lĩnh mọi tầm cao mà đi tới.
  • Câu thơ được tạo thành hai vế tiểu đối: “Ngàn thước lên cao // ngàn thước xuống”, làm câu thơ như bẻ đôi, diễn tả con dốc với chiều cao, sâu rợn ngợp. Điệp từ “ngàn thước” – ước lượng kết hợp hai vần bằng “lên cao” tạo cảm giác vừa rùng rợn vừa chơi vơi trên đỉnh mây mờ; chữ “xuống” là thanh trắc – gợi cảm giác con dốc từ đỉnh cao mây mù bất chợt lao thẳng xuống không phanh.
  • Có cảnh đoàn quân đi trong mưa vừa hùng vĩ lại rất nên thơ: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Câu thơ được dệt bởi những thanh bằng liên tiếp, gợi tả sự êm dịu, tươi mát của tâm hồn những người lính trẻ, trong gian khổ vẫn lạc quan yêu đời.

+ Nhớ hiện thực hi sinh: Cái chết đậm chất bi hùng “Anh bạn dãi dầu không bước nữa/ Gục lên súng mũ bỏ quên đời”. Từ láy “dãi dầu” tả gian khổ, vất vả. Ba chữ “bỏ quên đời” gợi tâm thế ngang tàng, kiêu bạc, coi thường cái chết, coi thường hiểm nguy. Chết trong tư thế đẹp, ôm chắc cây súng trong tay sẵn sàng chiến đấu, không quên nhiệm vụ của người lính, chết không rời bỏ đội hình, đội ngũ.

+ Nhớ tiếng gầm của cọp beo nơi rừng thiêng nước độc, nơi đại ngàn hoang vu:

  • Hai câu thơ gợi hình ảnh núi rừng hoang sơ, huyền bí. Âm thanh dữ dội của tiếng thác buổi chiều “gầm thét” hòa điệu với tiếng gầm của cọp beo “đêm đêm” hợp thành một bản hòa tấu rùng rợn vang động núi rừng. Điệp từ: “Chiều chiều, “đêm đêm” chỉ thời gian, sự lặp lại, nhưng còn gợi hình ảnh đoàn quân Tây Tiến luôn phải đối mặt với những hiểm nguy ngày đêm rình rập, đe dọa.

+ Nhớ kỉ niệm dừng chân ở Mai Châu:

  • Hai câu thơ cuối gợi cảm xúc bồi hồi tha thiết. “Nhớ ôi!” từ cảm thán mang tình cảm dạt dào, đó là tiếng lòng của các chiến sĩ Tây Tiến. Câu thơ đậm tình quân dân. Hai tiếng “mùa em” là một sáng tạo độc đáo về ngôn ngữ thi ca, nó gợi lên vẻ đẹp xuân tình, nồng nàn hương sắc, hương xuân của những thiếu nữ Mai Châu và còn hàm chứa trong đó là bao tình thương nỗi nhớ, điệu thơ trở nên uyển chuyển, mềm mại, tình thơ trở nên ấm áp.
  • “Nhớ mùi hương”, nhớ “cơm lên khói”, nhớ “thơm nếp xôi” là nhớ hương vị núi rừng Tây Bắc, nhớ tình nghĩa, nhớ tấm lòng cao cả của đồng bào Tây Bắc thân yêu.
  1. Đoạn 2: 8 câu tiếp theo

a/ Bốn câu đầu: Đêm liên hoan văn nghệ đậm tình quân dân.

  • “Doanh trại” là cách nói phi thường hoá, tráng lệ hoá.
  • Từ “ Bừng lên” gợi cảm giác ấm áp, gợi niềm vui lan tỏa. Đêm rừng núi thành đêm hội, ngọn đuốc nứa, đuốc lau thành “đuốc hoa” gợi không khí hạnh phúc, ấm cúng. “Bừng” chỉ ánh sáng của đuốc hoa, của lửa trại sáng bừng lên; cũng còn có nghĩa là tiếng khèn, tiếng hát, tiếng cười tưng bừng rộn rã. Không chỉ thế người lính Tây Tiến còn mê say trong tiếng nhạc, điệu khèn của vùng đất lạ.
  • Từ “kìa em” thể hiện sự ngạc nhiên, ngỡ ngàng trước vẻ đẹp của cô gái vùng cao trong trang phục “xiêm áo” lộng lẫy cùng dáng vẻ “e ấp” rất thiếu nữ. Những thiếu nữ Mường, Thái, Lào xinh đẹp, duyên dáng “e ấp”, xuất hiện trong bộ xiêm áo rực rỡ, cùng với tiếng khèn “man điệu” đã “xây hồn thơ” trong lòng các chàng lính trẻ. Cũng có thể hiểu người lính đang đóng giả con gái trong những trang phục dân tộc rất độc đáo, tạo tiếng cười vui cho đêm văn nghệ. Câu thơ cuối tả độ phiêu du của âm nhạc, cái phiêu du của hồn người đang thăng hoa cùng văn hoá Tây Bắc – “nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”.

b/ Bốn câu sau: Cảnh chia tay trên sông nước Tây Bắc vừa thực vừa mộng: hoang vắng, tĩnh lặng, buồn thi vị.

  • “Chiều sương ấy” là một buổi chiều đặc biệt, đầy kỉ niệm đáng nhớ. Từ “ấy” gợi thời gian hoài niệm, gợi màu sắc bảng lảng, sương khói, gợi nỗi buồn man mác, bâng khuâng. Lau lách vốn vô tri, không có hồn nhưng dường như nó đã nhuốm màu tâm trạng nên nó mang linh hồn người : “hồn lau nẻo bến bờ”.
  • Giữa không gian ấy, con người xuất hiện khoẻ khắn, kiên cường. “Độc mộc” là một loại thuyền được làm từ thân gỗ lớn, dài. “Dáng người trên độc mộc” phải chăng là dáng người mềm mại của cô gái Thái, Mèo trên chiếc thuyền độc mộc đang đua chiến sĩ vượt sông hay dáng người kiêu hãnh, hiên ngang của người lính đang chèo thuyền tiến lên phía trước. Hình ảnh ấy càng làm cho bức tranh thêm phần thơ mộng.
  • Dòng sông Mã với Tây Bắc ẩn chứa biết bao dữ dội nay lại hiện lên “dòng nước lũ”: “trôi dòng nước lũ hoa đong đưa” – câu thơ ngắt nhịp 4/3 tạo thành hai hai vế tiểu đối. “dòng nước lũ” tương phản với “hoa đong đưa”. Từ láy “đong đưa” gợi ấn tượng sâu sắc. “Đong đưa” chứ không phải là “đung đưa”, “đong đưa” vừa tả được chuyển động của hoa, vừa gợi được nét quyến rũ của hoa rừng Tây Bắc, vừa gợi cánh hoa rừng Tây Bắc cũng như quyến luyến con người.
  • Điệp từ: Có nhớ/ Có thấy luyến láy, khắc hoạ thêm nỗi nhớ bồi hồi, lưu luyến.
  1. Đoạn 3 : Hình tượng người lính Tây Tiến bi thương, hào hùng, lãng mạn. Quang Dũng dùng bút pháp hiện thực để tô đậm cái phi thường của người lính.

            – Đầu tiên có thể thấy cái bi thương: Ngoại hình người lính ốm yếu, tiều tụy, đầu trọc “không mọc tóc”, da dẻ xanh như màu lá “quân xanh màu lá”. Đoàn quân trông thật kì dị. Đó là hậu quả của những ngày hành quân vất vả vì đói và khát, dấu ấn của những trận sốt rét ác tính làm tóc rụng không mọc lại được, da dẻ héo úa như tàu lá.

            – Bên cạnh cái bi ta còn thấy cái hào hùng: thủ pháp nghệ thuật đối lập giữa ngoại hình ốm yếu và tâm hồn đã làm nên cái chất mạnh mẽ trong tư thế của người lính: “Đoàn binh không mọc tóc”, câu thơ tả cái ngang tàng của người lính, lại như có nét đùa vui: không cần tóc mọc . Lại có thêm “ Quân xanh màu lá”, tương phản với “ dữ oai hùm”. Cả ba nét vẻ đều sắc, góc cạnh. Hình ảnh những “ Vệ túm”, “Vệ trọc” một thời gian khổ đươc nói đến một cách hồn nhiên. Quân phục xanh màu lá, nước da xanh và đầu không mọc tóc vì sốt rét rừng, thế mà quắc thước hiên ngang, xung trận đánh giáp lá cà “ dữ oai hùm” làm cho giặc Pháp kinh hồn bạt vía. Cách dùng từ Hán Việt  “Đoàn binh” đã gợi lên được sự mạnh mẽ lạ thường của sự hùng dũng, trong đó có dáng dấp của “ Quân đi điệp điệp trùng trùng” trong thơ Tố Hữu, của “tam quân tì hổ khí thôn ngưu” (sức mạnh ba quân nuốt trôi trâu) trong thơ Phạm Ngũ Lão. Ba từ “ dữ oai hùm”, gợi dáng vẻ oai phong lẫm liệt, người lính Tây Tiến mạnh mẽ làm chủ tình hình, làm chủ núi rừng, chế ngự mọi khắc nghiệt xung quanh, đạp bằng mọi gian khổ. “Mắt trừng” dữ tợn, căm thù, mạnh mẽ, nung nấu ý chí diệt thù.

            Bên cạnh chất bi hùng, đoạn thơ còn để lại dấu ấn của chất lãng mạn của chàng trai Hà Nội mang tâm hồn hào hoa: “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”. Người lính Tây Tiến không chỉ biết cầm súng, cầm gươm theo tiếng gọi của non sông mà còn rất hào hoa. Giữa bao nhiêu gian khổ, thiếu thốn, trái tim họ vẫn rung động trong một nỗi nhớ về vẻ đẹp của Hà Nội: đó có thể là phố cũ, trường xưa, những con đường mùa thu thơm lừng hoa sữa… hay chính xác hơn là nhớ về một “dáng kiều thơm”, bóng dáng của những người con gái Hà thành yêu kiều, diễm lệ.

            – Bốn câu cuối ngời lên vẻ đẹp lí tưởng:

            + Câu “ Rải rác biên cương mồ viễn xứ” toàn từ Hán Việt gợi không khí cổ kính. Miêu tả về cái chết, không né tránh hiện thực. Những nấm mồ hoang lạnh vô danh mọc lên dọc đường quân hành nhưng không làm chùn bước chân Tây Tiến. Khi miêu tả những người lính Tây Tiến, ngòi bút của Quang Dũng không hề nhấn chìm người đọc vào cái bi thương, bi lụy. Cảm hứng của ông mỗi khi chìm vào cái bi thương lại được nâng đỡ bằng đôi cánh của lí tưởng, của tinh thần lãng mạn. Chính vì vậy mà hình ảnh những nấm mồ chiến sĩ rải rác nơi rừng hoang biên giới xa xôi đã bị mờ đi trước lí tưởng quên mình vì Tổ quốc của người lính Tây Tiến. Vì thế cho nên câu thơ tiếp theo dữ dội như một lời thề sông núi: “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”.

+ Phép tương phản: chiến trường – đời xanh. “Chiến trường” là đạn bom, chết chóc, hi sinh, gian khổ. “Đời xanh” là ẩn dụ chỉ vẻ đẹp tuổi trẻ, tuổi hoa niên.

            + Bốn từ “chẳng tiếc đời xanh ” vang lên khảng khái, vừa gợi vẻ bất cần đồng thời mang vẻ đẹp thời đại “Quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”, cống hiến trọn đời vì độc lập tự do của đất nước của dân tộc. Bởi vì hơn ai hết người lính hiểu rằng: Không gì quan trọng bằng Tổ quốc, hai tiếng giản dị mà thiêng liêng đến vô cùng:

Ôi tổ quốc ta yêu như máu thịt

Như mẹ cha ta như vợ như chồng

Ôi Tổ Quốc nếu cần ta chết

Cho mỗi ngôi nhà ngọn núi con sông

            + Chói ngời hơn nữa ở bức tượng đài người lính bộ đội Cụ Hồ là thái độ hi sinh. Quang Dũng viết về cái chết thật nhẹ nhàng như một khúc tráng ca:  “Áo bào thay chiếu anh về đất/ Sông Mã gầm lên khúc độc hành”. Quang Dũng đã tráng lệ hoá cuộc tiễn đưa bi thương bằng hình ảnh  áo bào và sự hy sinh của người lính đã được coi là sự trở về với đất nước, với núi sông. Cụm từ “anh về đất” nói về cái chết nhưng lại bất tử hoá người lính, nói về cái bi thương nhưng lại bằng hình ảnh tráng lệ. Chết là sự trở về với đất mẹ, đất mẹ giang rộng vòng tay đón lấy các anh để từ đó “Người  hi sinh đất hồi sinh/ máu người hóa ngọc lung linh giữa đời”. Mạch cảm xúc ấy đã dẫn tới câu thơ đầy tính chất tráng ca “Sông Mã gầm lên khúc độc hành”. Cái chết không chỉ làm xúc động lòng người mà còn làm cảm động đến cả thiên nhiên Tây Bắc. Vì thế khúc độc hành của dòng Sông Mã như lời tiễn đưa các anh bằng bản nhạc của núi rừng đượm chất bi tráng như loạt đại bác đưa tiễn những anh hùng về với non sông tổ quốc.

            – Nghệ thuật: sử dụng nhiều từ Hán Việt gợi sắc thái cổ kính, trang nghiêm. Lời thơ hàm súc vừa đượm chất hiện thực vừa gợi chất hào hùng, bi tráng.

  1. Đoạn cuối
  • Khép lại bài là lời thề son sắt thể hiện tinh thần “ Nhất khứ bất phục hồi” – Một đi không trở về:

“Tây tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi…”

  • Chàng trai Tây tiến, khi ra đi đều không ước hẹn ngày về, đều sẵn sàng hy sinh vì nghĩa lớn “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”. Vì vậy, cái chết với họ nào có là gì khi hồn của họ đã hoà vào hồn thiêng sông núi, bay lên, bay lên mãi, “hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”. Dù chết, linh hồn họ vẫn theo đồng đội hành quân, chiến đấu. Quang Dũng khẳng định cái ý niệm “nhất khứ bất phục hoàn” trong hình ảnh anh bộ đội Tây Tiến, cũng là cái ý niệm chung cả một thời kỳ, một thế hệ con người. Giọng thơ trầm, chậm, hơi buồn nhưng ý thơ vẫn hào hùng.
  • “Tây Tiến mùa xuân ấy” đã trở thành cái thời điểm một đi không trở lại của lịch sử nước nhà. Sẽ không bao giờ còn có lại cái thuở gian khổ và thiếu thốn đến dường ấy nhưng cũng lãng mạn và hào hùng đến dường ấy.

Thầy Phan Danh Hiếu

 

logo A