Đề thi thử Ngữ văn hướng mới và bài làm mẫu

0
95373

ĐỀ THI THỬ NGỮ VĂN HƯỚNG MỚI VÀ BÀI LÀM MẪU

 

Giáo viên biên soạn: Phan Danh Hiếu

 ĐỀ THI THỬ NGỮ VĂN VÀ BÀI LÀM MẪU 2019

 

PHẦN I. ĐỌC HIỂU (3.0 điểm)

           Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:

          Hy vọng là một thứ rất tuyệt diệu. Hy vọng cong, xoắn, thỉnh thoảng nó khuất đi, nhưng hiếm khi nó tan vỡ… Hy vọng duy trì cuộc sống của chúng ta mà không có gì có thể thay thế được… Hy vọng cho chúng ta có thể thể tiếp tục, cho chúng ta can đảm để tiến lên phía trước, khi chúng ta tự nhủ là mình sắp bỏ cuộc…

          Hy vọng đặt nụ cười lên gương mặt chúng ta khi mà trái tim không chủ động được điều đó…

          Hy vọng đặt đôi chân chúng ta lên con đường mà mắt chúng ta không nhìn thấy được …

          Hy vọng thúc giục chúng ta hành động khi tinh thần chúng ta không nhận biết được phương hướng nữa… Hy vọng là điều kỳ diệu, một điều cần được nuôi dưỡng và ấp ủ và đổi lại nó sẽ làm cho chúng ta luôn sống động… Và hy vọng có thể tìm thấy trong mỗi chúng ta, và nó thể mang ánh sáng vào những nơi tăm tối nhất…

          Đừng bao giờ mất hy vọng!

          (Trích: “Luôn mỉm cười với cuộc sống”, Nhã Nam tuyển chọn, NXB Trẻ, 2011, tr.05)

Câu 1. Hình ảnh “Hy vọng” được tác giả miêu tả qua những từ ngữ nào?

Câu 2. Việc lặp lại hai từ “Hy vọng” có tác dụng gì?

Câu 3. Anh/chị có cho rằng: “Hy vọng duy trì cuộc sống của chúng ta mà không có gì có thể thay thế được.”? Vì sao?

Câu 4. Thông điệp mà Anh/chị tâm đắc nhất trong văn bản là gì?

 

PHẦN II. LÀM VĂN (7.0 điểm)

          Câu 1. (2.0 điểm)

          Dựa trên thông tin của văn bản Đọc hiểu, Anh/chị hãy viết 01 đoạn văn ngắn (khoảng 200 chữ) bàn về ý nghĩa của “Hi vọng”.

          Câu 2. (5.0 điểm)

          Cảm nhận hình ảnh nhân vật Mị trong hai đoạn trích sau:

          Trong đêm tình mùa xuân: “Trong bóng tối, Mị đứng im lặng, như không biết mình đang bị trói. Hơi rượu còn nồng nàn, Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi. “Em không yêu, quả pao rơi rồi. Em yêu người nào, em bắt pao nào…”. Mị vùng bước đi. Nhưng tay chân đau không cựa được. Mị không nghe tiếng sáo nữa. Chỉ nghe tiếng chân ngựa đạp vào vách. Ngựa vẫn đứng yên, gãi chân, nhai cỏ. Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa”.

         Và trong đêm mùa đông: Đám than đã vạc hẳn lửa. Mị không thổi cũng không đứng lên. Mị nhớ lại đời mình. Mị tưởng tượng như có thể một lúc nào, biết đâu A Phủ chẳng trốn được rồi, lúc đó bố con thống lý sẽ đổ là Mị đã cởi trói cho nó, Mị liền phải trói thay vào đấy. Mị chết trên cái cọc ấy. Nghĩ thế, nhưng làm sao Mị cũng không thấy sợ…Trong nhà tối bưng, Mị rón rén bước lại, A Phủ vẫn nhắm mắt. Nhưng Mị tưởng như A Phủ biết có người bước lại… Mị rút con dao nhỏ cắt lúa, cắt nút dây mây. A Phủ thở phè từng hơi, như rắn thở, không biết mê hay tỉnh. Lần lần, đến lúc gỡ được hết dây trói ở người A Phủ thì Mị cũng hốt hoảng. Mị chỉ thì thào được một tiếng “Đi đi…” rồi Mị nghẹn lại. A Phủ khuỵu xuống không bước nổi. Nhưng trước cái chết có thể đến nơi ngay, A Phủ lại quật sức vùng lên, chạy.

        Mị đứng lặng trong bóng tối.

        Trời tối lắm. Nhưng Mị vẫn băng đi. Mị đuổi kịp A Phủ, đã lăn, chạy, chạy xuống tới lưng dốc. Mị nói, thở trong hơi gió thốc lạnh buốt:

          – A Phủ cho tôi đi

          A Phủ chưa kịp nói, Mị lại nói:

          – Ở đây thì chết mất.”

—HẾT—

BÀI LÀM

PHẦN I. ĐỌC HIỂU

Câu 1. Hình ảnh “Hy vọng” được tác giả miêu tả qua những từ ngữ: Hy vọng là một thứ rất tuyệt diệu. Hy vọng cong, xoắn, thỉnh thoảng nó khuất đi, nhưng hiếm khi nó tan vỡ…

Câu 2. Việc lặp lại hai từ “Hy vọng” có tác dụng:

Làm văn bản thêm tính hài hoà, cân đối, nhịp nhàng, sinh động, hấp dẫn.

Tăng tính liên kết giữa các câu trong văn bản.

Nhấn mạnh vai trò quan trọng của “Hy vọng” trong cuộc sống của mỗi con người. Hy vọng là điều kỳ diệu, là điểm tựa để đưa con người vượt qua những khó khăn thử thách hướng đến những điều tốt đẹp ở phía trước.

Câu 3.

         – Em đồng ý với ý kiến: “Hy vọng duy trì cuộc sống của chúng ta mà không có gì có thể thay thế được.”?

         – Vì: cuộc sống nhiều khó khăn và thử thách, nhờ “hy vọng” mà ta có được năng lượng để duy trì cuộc sống. Nguồn năng lượng này không gì có thể thay thế được. Bởi nó tạo ra:

         + Niềm tin, ý chí, động lực, lòng can đảm.

         + Hy vọng sẽ giúp con người sống lạc quan, yêu đời, chiến thắng nghịch cảnh: “Hy vọng đặt nụ cười lên gương mặt chúng ta khi mà trái tim không chủ động được điều đó… Hy vọng đặt đôi chân chúng ta lên con đường mà mắt chúng ta không nhìn thấy được …Hy vọng thúc giục chúng ta hành động khi tinh thần chúng ta không nhận biết được phương hướng nữa…”

Câu 4. Thông điệp tâm đắc nhất: “Đừng bao giờ mất hy vọng!”. Vì mất hy vọng chúng ta sẽ mất năng lượng và động lực sống. Hãy nuôi hi vọng mỗi ngày, tạo động lực và hành động mỗi ngày để sống lạc quan.

 

 BÀI GIẢNG VĂN MIỄN PHÍ. BẤM VÀO ĐÂY VÀ ĐĂNG KÝ NGAY

 

 

PHẦN II. LÀM VĂN

         Câu 1.

      Cuộc sống nhiều thử thách, nếu chỉ có bản lĩnh, lòng dũng cảm không thôi thì chưa đủ, bạn phải có sự lạc quan, niềm tin và nhất là Hi Vọng. Hi vọng là chìa khóa thành công của mỗi người. Người ta thường nói nhiều đến “niềm hi vọng”, “tia hi vọng”, “hi vọng mong manh”… và rất nhiều những ngôn từ khác nhau để nói về hi vọng. Nhưng chúng ta thấy đấy, hi vọng dù lớn lao hay chỉ là một đốm lửa, tia lửa đi nữa thì nó vẫn chứa đựng trong đó là cả một chờ đợi, mong mỏi mãnh liệt. Bởi thế, hi vọng mang đến cho cuộc sống này nhiều ý nghĩa. Hi vọng tạo cho con người động lực để sống, để tồn tại. Nó cũng tạo cho con người niềm tin, sự lạc quan hướng đến thế giới của tương lai. Bởi “cuộc sống luôn cho bạn cơ hội thứ hai – đó gọi là ngày mai”. Một ngày nào đó, bất chợt một biến cố lớn trong đời bạn xảy ra, bạn trở nên tuyệt vọng, không có ý chí vươn lên. Cuộc sống bạn tràn ngập màu đen như bóng tối của đường hầm. Và khi một cái đầu đầy nỗi sợ hãi thì còn chỗ trống nào cho những ước mơ. Khi đó, bạn hãy bình tĩnh đánh thức bản ngã, thức dậy bản lĩnh, đốt lửa hi vọng, thắp sáng niềm tin. Bạn sẽ thấy cuối đường hầm tối tăm kia là ánh sáng, dù nhỏ, nhưng bạn tiến tới càng gần thì càng thấy con đường sáng hiện ra. Hi vọng luôn mang đến cho chúng ta cuộc sống lạc quan, sự an yên trong tâm hồn, tìm thấy niềm vui trong bất hạnh khổ đau. Bởi vậy đừng bao giờ từ bỏ hi vọng dù là rất nhỏ. Ngược lại với hi vọng là thất vọng. Nếu hi vọng là con đường dẫn tới tương lai, thì sự thất vọng lại là địa ngục để giam cầm cuộc đời bạn. Thế nhưng có nhiều kẻ lại chọn cho mình địa ngục, sống không ước mơ, không hi vọng, sống như loài côn trùng chỉ biết rúc mình trong bóng đêm. Nhưng cũng không ít kẻ tự huyễn hoặc mình bằng những hi vọng viễn vông, những ảo vọng xa vời, những mộng tưởng phù phiếm không thể với tới. Trong tiếng Anh nếu LIVE là “Sống” thì viết ngược của LIVE là EVIL lại là “Quỷ dữ”. Vậy bạn chọn sống một cuộc sống Hi Vọng hay chọn cho mình địa ngục và Quỷ dữ? Và nếu cuộc đời bạn là một bức tranh đen tối thì hãy tự cầm bút và điểm lên đấy những ngôi sao sáng.

 

Câu 2.

 

Có ai đó đã từng nói: Thơ cám dỗ người đọc bằng ngôn từ, còn truyện ngắn lại cám dỗ người đọc bằng chi tiết, hình ảnh. Bởi vậy, sáng tạo chi tiết, hình ảnh độc đáo đòi hỏi nhà văn phải lựa chọn nghiêm ngặt sao cho cô đọng, hàm súc, ấn tượng, ám ảnh. Với ý niệm ấy, “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài thực sự đã để lại cho người đọc những ấn tượng đặc sắc, có sức hút lớn. Đặc biệt là qua hai hình ảnh miêu tả nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân và trong đêm đông cứu A Phủ:

Trong đêm tình mùa xuân: “Trong bóng tối […] mình không bằng con ngựa”

Và trong đêm mùa đông: “Đám than đã vạc hẳn lửa […] vụt chạy ra”

Tô Hoài là nhà văn có vốn hiểu biết rất sâu rộng về nhiều vùng văn hóa khác nhau trên đất nước ta, đặc biệt là vùng văn hóa Tây Bắc – nơi ông có chuyến đi dài tám tháng cùng bộ đội vào giải phóng vùng đất này, để rồi từ đó “Vợ chồng A Phủ” đã ra đời. Ông cũng là nhà văn luôn hấp dẫn bạn đọc bởi lối trần thuật hóm hỉnh, sinh động của người từng trải với vốn từ vựng giàu có, phong phú – nhiều khi rất bình dân nhưng nhờ cách sử dụng đắc địa và tài ba nên có sức lôi cuốn, lay động người đọc.

“Vợ chồng A Phủ” trích trong tập “Truyện Tây Bắc” là tác phẩm tiêu biểu của Tô Hoài viết về vùng đất và con người Tây Bắc bao la và nghĩa tình. Tác phẩm vừa là bức tranh chân thực về cuộc sống bi thảm của người dân nghèo dưới ách áp bức bóc lột của chủ nô miền núi, vừa là bài ca ca ngợi sức sống tiềm tàng, khát vọng tự do mãnh liệt của của con người. Tiêu biểu cho nội dung ấy là hình tượng nhân vật Mị – một hình tượng nghệ thuật độc đáo, hấp dẫn chứa đựng nhiều thông điệp của nhà văn. Hình tượng nhân vật này đã được nhà văn Tô Hoài tập trung khắc họa một cách ấn tượng, chân thực và sinh động qua hai đoạn văn: Đêm tình mùa xuân và đêm đông cởi trói cho A Phủ. Có thể nói, đây là hai đoạn trích tuyệt bút thể hiện tài năng bậc thầy của Tô Hoài trong việc miêu tả nội tâm nhân vật.

Đoạn văn thứ nhất là hình ảnh nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân với sức sống tiềm tàng mãnh liệt trong hoàn cảnh bị vùi dập.

Trước đó nhà văn miêu tả nhân vật Mị – một cô gái trẻ đẹp, giàu nhân phẩm, giàu tài năng âm nhạc với điệu sáo làm say mê lòng người. Vì món nợ nhà giàu của cha mẹ, Mị bị bắt làm dâu gạt nợ trong nhà thống lý, cuộc sống thống khổ như trâu ngựa dần biến Mị thành người đàn bà câm lặng, chai sạn, băng giá. Thể xác bị bóc lột, tinh thần bị tê liệt, mất ý thức phản kháng bởi sự cầm tù của thần quyền và cường quyền. Đêm tình mùa xuân đến, cùng với sự náo nức rạo rực của đất trời là sự náo nức trong lòng Mị. Cùng với tiếng sáo và men rượu nồng nàn, Mị đã sống dậy những phút giây hạnh phúc nhất của tuổi trẻ. Mị nhận thức được thanh xuân của mình. Mị thấy “Mị trẻ lắm. Mị vẫn đang còn trẻ. Mị muốn đi chơi”. Khát vọng tự do cháy bỏng khiến Mị quên đi nỗi sợ hãi về cường quyền và thần quyền. Mị thắp đèn, cuốn lại tóc, lấy váy hoa, rút thêm cái áo sửa soạn đi chơi. Nhưng A Sử đã nhẫn tâm vùi dập Mị bằng một thúng sợi đay, hắn trói Mị vào cột, “tóc Mị xõa xuống, A Sử quấn luôn tóc lên cột, làm cho Mị không cúi, không nghiêng được đầu nữa”.

Chính lúc này đây, sức sống tiềm tàng mãnh liệt trong con người lao động được bộc lộ sâu sắc và mãnh liệt nhất. Chính sức sống ấy đã làm Mị quên đi nỗi đọa đày khổ nhục, quên đi đớn đau về thể xác. Câu văn đầu mở ra hình ảnh tội nghiệp của Mị: “Trong bóng tối, Mị đứng im lặng như không biết mình đang bị trói”. Cái “im lặng như không biết mình đang bị trói” ấy không phải là sự vô cảm, sự nhẫn nhục thường thấy ở người đàn bà này. Đây chính là lúc mà thể xác của Mị đã không còn cảm nhận được nỗi đau. Bởi thể xác Mị nằm đây giữa bốn bức tường lạnh lẽo, nhưng tâm hồn Mị thì đang ở ngoài kia – thế giới của thiên đường mênh mang tiếng sáo gọi bạn tình. Men rượu chưa tan, men rượu còn nồng nàn trong Mị, hương rượu quyện hòa trong hương thơm của men tình dặt dìu theo tiếng sáo. Nếu trước đó tiếng sáo là tác nhân đã phá tan lớp băng vô cảm, đã mở toang cánh cửa trái tim Mị để đón nhận hương đời. Thì nay, sáo đã trao cho Mị chiếc chìa khóa vàng để lòng khát khao sống, khát khao yêu được bùng cháy. Lúc này đây trong cơn say, tiếng sáo lại một lần nữa đến bên Mị, cứu rỗi linh hồn Mị, dìu Mị đi trong những “cuộc chơi, những đám chơi”. Tình yêu của Mị dành cho tuổi trẻ, cho cuộc đời còn nồng nàn lại được tiếng sáo nâng đỡ, dìu dắt khiến cho tình yêu ấy càng đắm say, ngây ngất. Tiếng sáo đã không còn “lửng lơ bay ngoài đường” nữa mà đã nhập vào hồn Mị. Tâm hồn Mị như rung lên cùng nhịp sáo:

“Em không yêu, quả pao rơi rồi

Em yêu người nào, em bắt pao nào”

         Có thể nói, tiếng sáo là chi tiết hay nhất trong “Vợ chồng A Phủ”, là “hạt bụi vàng” của tác phẩm. Nhờ chi tiết tiếng sáo mà người đọc nhìn thấu được cảm xúc, tâm trạng cũng như sự hồi sinh mạnh mẽ, mãnh liệt ở Mị. Tiếng sáo là biểu tượng cho thế giới tự do, là hiện thân của tuổi trẻ, tài năng và ký ức đẹp tươi của Mị. Bởi thế chính tiếng sáo là âm thanh hay nhất, lay động nhất tới sự hồi sinh của nhân vật. Sức mạnh tiếng sáo và giấc mơ tự do đã khiến Mị quên đi thực tại ê chề. Đúng như Tô Hoài từng nhận định: “Tiếng sáo kia quá tha thiết, quá mạnh mẽ, nó dìu hồn Mị bay lên trên hoàn cảnh, nó là biểu tượng của niềm khát sống, khát khao yêu, ở đây còn là lòng khao khát tự do nữa”. Tâm hồn Mị như đang thăng hoa cùng tiếng sáo gọi bạn tình. Thế giới nội tâm ấy thật đẹp biết bao!

         Nhưng cũng chính tiếng sáo là tác nhân khắc sâu thêm bi kịch của Mị. Tiếng sáo nhập vào hồn Mị khiến Mị quên đi thực tại đau buồn nhưng cũng chính nó lại đánh thức thực tại của Mị. Nghe tiếng sáo, “Mị vùng bước đi”. Bốn chữ “Mị vùng bước đi” thật ngắn gọn nhưng hàm chứa trong đó là sức phản kháng, sức sống tiềm tàng mãnh liệt. Câu văn tinh tế, sâu sắc, gợi ra biết bao suy tưởng về nhân vật. Làm sao Mị có thể vùng bước đi khi đã bị trói bằng cả một thúng  sợi đay? Nhưng Mị đã “vùng bước đi” thật. Mị không ý thức được hoàn cảnh thực tại, bởi Mị là kẻ mộng du đang lang thang với giấc mơ tự do của mình. Chỉ khi “tay chân đau không cựa được”, Mị mới thoát khỏi cơn mộng du của mình. Lúc này, nỗi đau thể xác hiện hữu cùng âm thanh tiếng chân ngựa đạp vào vách làm hiện thực trở nên phũ phàng, cay đắng. Tiếng sáo vụt biến tan, chỉ còn tiếng chân ngựa. Tiếng chân ngựa là âm thanh của thực tại, tiếng sáo là hiện thân của giấc mơ. Tiếng chân ngựa đã đập vỡ giấc mơ và khát vọng tự do của Mị, kéo Mị từ thiên đường trở lại địa ngục. Thế giới giấc mộng không còn, thế giới của thiên đường cũng biến mất, chỉ tiếng “gãi chân, nhai cỏ” là có thật. Mị quay trở về với hiện thực đau buồn, chợt cay đắng nhận ra thân phận thật sự của mình: “Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa”. Đề ra và bài làm của thầy Phan Danh Hiếu.

Có thể nói: Bi kịch của cuộc sống hiện tại không ngăn được khát vọng tự do mãnh liệt như ngọn lửa đang bùng cháy trong Mị. Đêm tình mùa xuân đi qua, Mị vẫn trở về với ô cửa lỗ vuông, với tảng đá cạnh tàu ngựa, vẫn những công việc đầu năm, giữa năm, cuối mùa vẽ ra trước mắt. Nhưng tâm trạng và hành động của Mị trong đêm tình mùa xuân giống như một tia lửa nhỏ mà “một tia lửa nhỏ hôm nay báo hiệu đám cháy ngày mai” (Lỗ Tấn). Tia lửa ấy sẽ bùng cháy vào cái đêm cởi trói cho A Phủ và cùng anh trốn khỏi Hồng Ngài sau này.

Đoạn văn thứ hai, tác giả diễn tả sự quật khởi của Mị với sức sống  tiềm tàng mãnh liệt, sức phản kháng quyết liệt của Mị trong đêm đông cứu A Phủ. Đây là đoạn trích thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc và mới mẻ của tác phẩm.

   Trước đó Mị hoàn toàn vô cảm, chai sạn trước việc A Phủ bị trói đứng chờ chết. Nhưng chính dòng nước mắt của A Phủ đã thức dậy niềm đồng cảm và lòng nhân ái ở Mị. Cô nhận ra nỗi khổ đau của người đồng cảnh ngộ, nhận ra mình và A Phủ cùng nỗi tủi nhục, thống khổ như nhau. Từ cảnh ngộ của mình và người đàn bà bị trói đến chết ngày trước, đến cảnh đau đớn và bất lực của A Phủ trước mắt, Mị nhận thấy “chúng nó thật độc ác”, thấy “người kia việc gì mà phải chết”. Đó là sự nhận thức mang tính lý trí chứ không phải là cảm tính nữa. Và đặt mình cùng A Phủ lên bàn cân của số phận. Mị thấy, Mị có chết cũng là tất yếu vì: “Ta là thân đàn bà”;  “Nó đã bắt ta về cúng trình ma nhà nó rồi thì đợi ngày rũ xương ở đây thôi”. Nghĩ đến A Phủ, Mị thấy phi lí “người kia việc gì mà phải chết thế”. Trong suy nghĩ ấy, Mị đã nghiêng hết phần sống của mình cho A Phủ. Đó là tấm lòng nhân ái bao la của cô gái vùng cao Tây Bắc. Mị trân trọng giá trị con người, mạng sống con người. Lòng thương người thức dậy trong Mị và đang hình thành hành động.

   Trước khi cởi trói, diễn biến tâm lý Mị rất phức tạp: “Đám than đã vạc hẳn lửa. Mị không thổi cũng không đứng lên. Mị nhớ lại đời mình”.  Một chi tiết nghệ thuật đầy ẩn ý. Đám than tàn nhưng cũng là lúc ngọn lửa trong Mị đang bùng cháy lên. “Nhớ lại đời mình” – Mị chỉ thấy toàn khổ đau, bất công ngang trái. Đời Mị có thể sẽ chết “rũ xương” ở đây, nhưng A Phủ thì không phải thế. Từ cuộc đời dài dằng dặc đau khổ của mình, nghĩ tới A Phủ, Mị tưởng tượng rằng: “như có thể một lúc nào, biết đâu A Phủ chẳng đã trốn được rồi, lúc ấy bố con Pá Tra sẽ bảo là Mị đã cởi trói cho nó, Mị liền phải trói thay vào đấy, Mị phải chết trên cái cọc ấy”. Nếu như ngày trước Mị đã từng sợ chết thì bây giờ, cái chết với Mị không còn là điều đáng sợ nữa. Nếu Mị có bị bắt chết trên cái cọc ấy, nàng cũng bằng lòng. Điều gì đã làm cho Mị không sợ hãi? Phải chăng đó là lúc: Lòng thương người trong Mị đã lớn hơn tất cả mọi nỗi sợ cường quyền và thần quyền.

       Tình thương ấy khiến cô đi đến hành động cởi trói cho A Phủ: “Mị lấy con dao chấu nhỏ, cắt từng nút dây mây”. Hành động nhanh, gọn chứng tỏ sức phản kháng của Mị trước tội ác của cha con nhà thống lý rất mạnh mẽ, quyết liệt. Đây là lúc lòng thương người và lòng căm thù đã hòa nhập vào một khiến người con gái vùng cao mạnh mẽ hành động. Đây là một hành động mang tính bản năng, bột phát nhưng là tất yếu. Bởi thế, sau hành động mãnh liệt là tâm lý “hốt hoảng”, “nghẹn lại”, chơi vơi của Mị.

       Đối mặt với hiểm nguy Mị cũng hốt hoảng “Mị đứng lặng trong bóng tối”. Câu văn tách thành một dòng riêng nằm chơi vơi ở giữa những câu chữ ngổn ngang. Theo “nguyên lý tảng băng trôi” của Hemingway – hình ảnh Mị đứng lặng chỉ là phần nổi của tảng băng, còn ẩn sau những câu chữ và hành động ấy của Mị là cuộc đấu tranh nội tâm dữ dội: Đi hay ở ? Sống hay là chết? Tự do hay nô lệ ? Cuối cùng tiếng gọi tự do đã vẫy gọi, hối thúc Mị.

   Trong giây phút đối diện với bản án tử hình ấy, lòng ham sống mãnh liệt đã thúc giục Mị chạy theo A Phủ. Đoạn văn tiếp theo miêu tả hành động Mị toàn những động từ mạnh: “vụt chạy – băng đi – đuổi kịp – đã lăn – chạy – chạy xuống – nói – thở”. Những động từ mạnh ấy đã giúp Tô Hoài nhìn thấy được nội lực và sức phản kháng mạnh mẽ cháy bùng trong Mị. Nếu đêm tình mùa xuân là “tia lửa nhỏ” thì hành động chạy theo A Phủ của Mị thực sự đã trở thành “đám cháy lớn”. Cuối cùng Mị đã có sự lựa chọn đúng đắn khi mà khát vọng sống trỗi dậy thật mãnh liệt, Mị vụt chạy theo A Phủ, cũng có nghĩa là chạy thoát cuộc đời nô lệ, đến với ánh sáng của tự do. Bước chân Mị như đạp đổ thần quyền của bọn lãnh chúa phong kiến bao năm qua đè nặng lên Mị. Mị đã nói trong cơn gió thốc: “A Phủ cho tôi đi! Ở đây thì chết mất”. Sau bao năm câm lặng trong nhà thống lý, Mị dường như quên đi tiếng nói của đồng loại. Thì nay, khi nói ra được câu nói đầu tiên thì đó lại là câu nói thể hiện lòng ham sống, khát vọng tự do đến mãnh liệt. Và chính lòng ham sống, khát khao tự do, hạnh phúc đã chiến thắng sức mạnh của cường quyền và thần quyền. 

   Hai đoạn văn, hai tâm trạng cảm xúc khác nhau nhưng đều thể hiện sức sống tiềm tàng mãnh liệt của nhân vật Mị và biệt tài miêu tả tâm lý nhân vật của Tô Hoài. Đoạn văn một là hình ảnh Mị hồi sinh mạnh mẽ, mãnh liệt; sức sống tiềm tàng bấy lâu ẩn giấu nay bùng cháy dữ dội. Nhưng đúng lúc sức sống ấy được hồi sinh thì cũng là lúc bị cường quyền chà đạp. Mị vẫn không thay đổi được số phận của mình. Đoạn văn hai, từ trạng thái vô cảm, Mị đã đồng cảm với nỗi đau của A Phủ. Đây là sự chuyển biến lớn trong tâm lý của Mị dẫn đến thay đổi cục diện của tác phẩm. Qua sự thay đổi này Tô Hoài đã khẳng định được chân lý: “sức mạnh lớn nhất mà nhân loại có được chính là lòng yêu thương con người”. Từ đồng cảm, Mị đã đi đến hành động táo bạo, quyết liệt – “cởi trói cho A Phủ”. Mị giải thoát cho A Phủ cũng là giải thoát cho chính mình. Đề ra và bài làm của thầy Phan Danh Hiếu. Hành động táo bạo và bất ngờ ấy là kết quả tất yếu của sức sống tiềm tàng khi người con gái yếu ớt dám chống lại cả cường quyền và thần quyền. Đó chính là sức phản kháng mạnh mẽ của nhân vật và cũng là sự mở đường của nhà văn đưa nhân vật tới chân trời mới.

 Thành công của tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” nói chung và hai đoạn trích nói riêng, chính là nhờ vào tài năng nghệ thuật bậc thầy của Tô Hoài. Trần thuật tự nhiên. Ngôn ngữ kể chuyện sinh động, chọn lọc, sáng tạo; dẫn dắt tình tiết truyện khéo léo. Biệt tài miêu tả tâm lý nhân vật sắc sảo. Nhà văn như đặt chiếc camera vào mê cung tâm trạng nhân vật để mang đến những thước phim quay chậm tinh tế và cảm động về sự hồi sinh của nhân vật. Qua biệt tài nghệ thuật ấy, giá trị nhân đạo của tác phẩm dần hiện lên. Nhà văn đồng tình với khát vọng của con người lao động. Phát hiện, trân trọng, ngợi ca trước vẻ đẹp tâm hồn con người. Đồng thời nhà văn cũng mở đường sống cho nhân vật của mình, hướng họ đến ánh sáng của tự do.

Nhân vật Mị là linh hồn là hơi thở của tác phẩm. Xây dựng nhân vật Mị là một thành công đặc sắc của nhà văn Tô Hoài. Qua việc miêu tả diễn biến tâm trạng của nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân và đêm đông cởi trói cho A Phủ, Tô Hoài đã khẳng định sức sống tiềm tàng mãnh liệt và khát vọng tự do của nhân dân lao động Tây Bắc dưới sự thống trị của bọn lãnh chúa thổ ty miền núi. Có nhà phê bình đã cho rằng: “Văn học nằm ngoài mọi sự băng hoại. Chỉ riêng mình nó không chấp nhận quy luật của cái chết”. Đúng vậy, sức sống tiềm tàng mãnh liệt của nhân vật Mị và giá trị nhân đạo sâu sắc, mới mẻ của Tô Hoài cũng đã làm nên sức sống trường tồn, vĩnh cửu của tác phẩm “Vợ Chồng A Phủ” để hơn nửa thế kỷ trôi qua, đến nay tác phẩm ấy vẫn dạt dào sức sống.

Thầy Phan Danh Hiếu

Nếu bạn đã đọc đến đây rồi thì giúp thầy một việc:

Bạn vào Youtube và gõ dòng chữ “Văn học Online”. Đây là kênh Youtube của thầy với nhiều bài giảng miễn phí. Bạn hãy đăng ký kênh thầy nhé.

         Các bạn ở Biên Hòa, Đồng Nai nếu học Luyện thi thì đến ngay trung tâm Nguyệt Quế để học – số điện thoại 0963.089.585

         Các bạn ngoại tỉnh, xa có thể học Online tại trang: http://vanhocthpt.com

 

Thầy Phan Danh Hiếu

Chủ biên nhiều sách tham khảo, luyện thi ĐH môn Văn

Admin hai trang web Tài liệu văn: https://thayhieu.net

http://vanhocthpt.com

Quản lý ba Fanpage: